image banner
50 tình huống giải đáp pháp luật về hòa giải cơ sở
Lượt xem: 963
Thực hiện công văn số 1498/STP-PBGDPL ngày 20/12/2021 của Sở Tư pháp tỉnh Sơn La về việc khai thác  50 tình huống giải đáp pháp luật về hòa giải cơ sở

Tình huống 1. Tài sản chung do chồng đứng tên

Ngày cưới anh B và chị T, mẹ chồng và bà con họ hàng nội ngoại đã tặng

chị T rất nhiều nữ trang (khoảng 03 lượng vàng). Sau ngày cưới, hai anh chị đã
bán số vàng đó lấy tiền mua một chiếc xe máy (anh B đứng tên chủ sở hữu). Số
tiền còn lại dùng làm vốn mở cửa hàng tạp hóa. Do nợ tiền chơi cờ bạc đến hạn
phải trả, anh B đã bán chiếc xe máy lấy tiền trả nợ mà không hỏi ý kiến chị T.
Hai vợ chồng to tiếng, cãi vã nhau, anh B cho rằng xe máy đứng tên anh, anh có
quyền bán. Chị T cho rằng tiền mua xe là từ tiền bán vàng của chị được tặng.
Không ai chịu ai, cả giận, mất khôn anh B cầm gậy đánh vào chân chị T làm rạn
xương mu bàn chân phải đi viện, cuộc sống gia đình ngày càng căng thẳng. Nếu
được phân công hòa giải vụ việc này, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Do nợ tiền chơi cờ bạc đến hạn
phải trả, anh B đã bán chiếc xe máy (do chị T bán vàng được tặng khi cưới để
mua) lấy tiền trả nợ mà không hỏi ý kiến chị T. Không ai chịu ai, cả giận, mất
khôn anh B cầm gậy đánh vào chân chị T làm rạn xương mu bàn chân phải đi
viện, cuộc sống gia đình ngày càng căng thẳng.
2. Căn cứ pháp lý:
Điều 33, Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “Tài sản chung của
vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp
khác trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung...
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để
bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng…”
- Khoản 1 Điều 8 Luật phòng chống bạo lực gia đình nghiêm cấm: “ Các
hành vi bạo lực gia đình sau: Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý
khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng…”.
- Khoản 1, Điều 49 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định: “Phạt tiền từ
1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích
cho thành viên gia đình”.
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở các
quy định của Luật Hôn nhân gia đình, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Nghị
định 167/2013/NĐ-CP nêu trên, hòa giải viên cần phân tích để anh B hiểu việc
anh bán xe máy (được mua từ số tiền, vàng chị T được tặng ngày cưới) không
hỏi ý kiến chị mà còn đánh chị là vi phạm pháp luật.

- Thuyết phục hai bên vì tình cảm vợ chồng không nên cãi vã to tiếng và
không để xảy ra xung đột. Khuyên chị T cần nhẹ nhàng khuyên bảo, nói chuyện
phải trái với chồng. Không nên phản ứng lại thái quá như đổ thêm dầu vào lửa
làm rạn vỡ tình cảm vợ chồng. Hai vợ chồng nên ngồi lại cùng nhau bàn bạc
cách giải quyết những khó khăn trước mắt.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 2. Phân chia tài sản sau ly hôn

Anh A kết hôn với chị B năm 2002. Sau khi kết hôn, hai người sống
chung với bố mẹ chồng và sinh được 01 người con. Khi bố mẹ anh A tiến hành
cải tạo lại ngôi nhà, vợ chồng anh chị đã đưa cho bố mẹ 400 triệu đồng (đây là
số tiền do hai vợ chồng tiết kiệm được). Quá trình chung sống giữa mẹ chồng và
nàng dâu thường có nhiều xích mích. Do anh A thường đứng về phía mẹ nên chị
B rất bức xúc, căng thẳng có lúc được đẩy nên cao, mỗi lần như thế là một lần to
tiếng, cãi vã. Không chịu nổi cuộc sống căng thẳng, chị B có ý định ly hôn
chồng nhưng chị còn băn khoăn không biết nếu ly hôn, quyền lợi của chị sẽ thế
nào, trong khi chị vẫn rất yêu chồng, thương con. Chị đã tìm đến Tổ hòa giải
nhờ giúp đỡ. Nếu được giao hòa giải vụ việc, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?

Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Quá trình chung sống giữa
mẹ chồng và nàng dâu thường có nhiều xích mích. Do anh A thường đứng về
phía mẹ nên chị B rất bức xúc, căng thẳng, mỗi lần như thế là một lần to tiếng,
cãi vã. Không chịu nổi cuộc sống căng thẳng, chị B có ý định ly hôn chồng
nhưng chị còn băn khoăn không biết nếu ly hôn, quyền lợi của chị sẽ thế nào,
trong khi chị vẫn rất yêu chồng, thương con.

2. Căn cứ pháp lý
Khoản 1, 2 Điều 33 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định
tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng
hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để
bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.”
- Khoản 2, Điều 59 Luật Hôn nhân gia đình quy định: “Tài sản chung của
vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: … Công sức đóng

góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao
động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nêu trên, thì nếu chị ly hôn chị được chia
một phần tài sản phù hợp với công sức đóng góp của vợ, chồng trong việc tạo
lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung của gia đình nhà chồng.
- Thuyết phục hai bên không nên cãi vã to tiếng và không để xảy ra xung
đột, các bên có nghĩa vụ tôn trọng lẫn nhau. Cần thuyết phục để anh A hiểu rõ
cách cư xử của anh là nguyên nhân chính gây ra vụ việc. “Bên hiếu, bên tình”
bên nào cũng nặng, vì vậy anh phải khéo léo, hòa giải mâu thuẫn giữa vợ và mẹ
không nên đứng về một phía.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 3. Làm nhà trên mảnh đất bố mẹ chồng cho
Sau khi kết hôn, chị N và anh Đ được bố mẹ chồng tặng 200m 2 đất để xây
dựng nhà. Thủ tục cho tặng quyền sử dụng đất đã được hoàn tất, nhà ở đã được
xây bằng tiền mà hai vợ chồng Đ và N đã dành dụm được sau khi cưới và bố mẹ
hai bên cho thêm. Thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi
tên chị N và anh Đ. Hai vợ chồng anh Đ, chị N sống với nhau rất hạnh phúc
nhưng mãi chưa có con. Sau nhiều lần khám bệnh, bác sĩ thông báo chị N không
có khả năng mang thai và sinh con. Thương chồng, chị N thuyết phục anh Đ ly
hôn để anh có thể lấy vợ mới còn sinh con để gia đình có cháu nối dõi. Trong
quá trình chờ tòa án giải quyết việc ly hôn, anh Đ đột ngột qua đời, chị N vẫn
sinh sống tại ngôi nhà đó. Sau khi anh Đ chết được 100 ngày, bố mẹ anh Đ yêu
cầu chị N phải trả lại toàn bộ diện tích đất mà vợ chồng ông đã cho trước đây.
Chị N không đồng ý, nên hai bên xảy ra mâu thuẫn, nhiều lần cãi vã, lớn tiếng
với nhau. Nếu được giao hòa giải vụ việc trên, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Nguyên nhân mâu thuẫn: Chị N và anh Đ được bố mẹ chồng tặng
200m 2 đất để xây dựng nhà. Thủ tục cho tặng quyền sử dụng đất đã được hoàn
tất. Thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên chị N và
anh Đ. Anh Đ đột ngột qua đời, chị N vẫn sinh sống tại ngôi nhà đó. Sau khi anh
Đ chết được 100 ngày, bố mẹ anh Đ yêu cầu chị N phải trả lại toàn bộ diện tích
đất mà vợ chồng ông đã cho trước đây. Chị N không đồng ý.
2. Căn cứ pháp lý
- Khoản 2, Điều 655 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Trường hợp vợ,
chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án
hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn
sống vẫn được thừa kế di sản”.

4

- Điểm a, Khoản 1; Khoản 2 Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy
định: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết… Những người thừa kế cùng hàng được hưởng
phần di sản bằng nhau”.

3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu trên, hòa giải viên phân tích để bố mẹ anh Đ
hiểu ông bà đã tặng đất cho 2 vợ chồng con trai của ông bà và mảnh đất đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên chị N và anh Đ. Anh Đ con trai ông
bà đột ngột qua đời, thì chị N vợ anh đương nhiên được hưởng phần di sản do anh
để lại.
- Thuyết phục bố mẹ anh Đ và chị N vì tình cảm gia đình, tình cảm mẹ con
không nên cãi vã, lớn tiếng với nhau mà nên thỏa thuận về việc chia di sản của anh
Đ để lại một cách hợp lý, vì chị N đang trong quá trình chờ Tòa án giải quyết ly
hôn, trên danh nghĩa vẫn là dâu con trong gia đình.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 4. Mâu thuẫn khi phân biệt đối xử giữa các con
Gia đình ông N có 04 bốn người con trai. Sau khi lập gia đình, các con
đều sống chung cùng với ông bà. Thời gian gần đây, ông N thường đối xử không
bình đẳng giữa các con, nhất là đối với anh T - người con trai thứ hai. Ông N
thường xỉ vả, chửi bới anh T. Đang trong thời gian nghỉ chờ việc mới, bị bố đối
xử thường xuyên với mình như vậy, anh T sinh chán nản, hay uống rượu và lêu
lổng quán xá. Mâu thuẫn giữa hai cha con ngày càng trầm trọng, có lúc anh T đã
từng dọa đánh cha, may nhờ có gia đình và hàng xóm can ngăn, nên không xảy
ra hậu quả đáng tiếc. Nếu được hòa giải vụ việc này thì ông (bà) sẽ hòa giải như
thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa ông N và anh T
con trai ông là do ông N thường xuyên đối xử không bình đẳng giữa các con,
nhất là đối với anh T, ông thường xỉ vả, chửi bới anh T, do đang trong thời gian
chưa có việc làm nên anh T sinh chán nản, hay uống rượu, có lúc dọa đánh cha...
2. Căn cứ pháp lý:
- Khoản 1, Điều 69 Luật Hôn nhân & gia đình quy định nghĩa vụ và
quyền của cha mẹ : “ Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc
học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở
thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội”
- Khoản 1, Khoản 2, Điều 70 Luật hôn nhân và gia đình về quyền và nghĩa
vụ của con quy định: “ Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền,

5

lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học
tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha
mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình”.
- Khoản 1 Điều 8 Luật phòng chống bạo lực gia đình nghiêm cấm: “ Các
hành vi bạo lực gia đình sau: Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý
khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc
phạm danh dự, nhân phẩm…”.
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên các cơ sở
quy của Luật Hôn nhân & gia đình và Luật phòng, chống bạo lực gia đình nêu
trên, hòa giải viên cần phân tích để ông N hiểu nghĩa vụ của người cha như ông
là cần yêu thương con, không được phân biệt đối xử với con...; về phần anh T
phải có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ,
giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình...
- Thuyết phục, động viên anh T không uống rượu và lêu lổng quán xá, tập
trung tìm công việc phù hợp và hai bố con không nên to tiếng, gây căng thẳng
làm ảnh hưởng đến hàng xóm.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 5. Mâu thuẫn từ những chỉ vàng

Vợ chồng anh A và chị B có hai người con tên là Tuấn và Tú (2 cháu dưới
15 tuổi). Trước khi mất, chị B có làm di chúc để lại cho mỗi chị em Tuấn và Tú 2
lượng vàng (số vàng này anh A giữ). Ba năm sau, anh A tái hôn với người khác.
Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, anh A muốn bán 4 lượng vàng để lấy tiền nuôi
các con ăn học. Biết chuyện, ông bà ngoại hai cháu Tuấn, Tú đã không đồng ý cho
anh A bán số vàng trên. Giữa anh A và bố mẹ vợ đã nảy sinh mâu thuẫn.
Trong trường hợp này, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào.
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa anh A và bố mẹ
vợ là do anh A muốn bán 4 lượng vàng mà chị B đã di chúc để lại cho 2 con gái
để lấy tiền nuôi các con ăn học.
2. Căn cứ pháp lý:
- Khoản 1, Điều 77 Luật Hôn nhân & gia đình quy định: “Trường hợp cha
mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản riêng của con dưới 15 tuổi thì có quyền
định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, nếu con từ đủ 09 tuổi trở lên thì phải xem
xét nguyện vọng của con”.
3. Hướng giải quyết

6

- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Khoản 1, Điều 77 Luật Hôn nhân & gia đình, hòa giải viên căn cứ vào độ
tuổi của các con để phân tích cho các bên hiểu quyền của anh A và quyền của 2
con gái trong việc định đoạt tài sản đó.
- Đồng thời phân tích để ông bà ngoại hai cháu hiểu do hoàn cảnh gia
đình khó khăn, nên anh A mới phải bán 4 lượng vàng để lấy tiền nuôi các con.
Khuyên anh A có thể tìm cách khác để lấy tiền nuôi con vì 4 lượng vàng là tài
sản mà người mẹ đã mất để lại, nó không những có giá trị vật chất mà còn có ý
nghĩa về mặt tinh thần đối với các cháu.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các
bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tình huống 6. Không chu cấp cho con sau ly hôn

Theo Quyết định của Tòa án, sau khi ly hôn, chị Bé là người trực tiếp nuôi
dưỡng cháu Bình - con gái của chị và anh An. Còn anh An có trách nhiệm cấp dưỡng
nuôi con với mức tiền 2.000.000đ/tháng. Trước năm 2016, trách nhiệm cấp dưỡng
đã được anh An thực hiện đầy đủ. Nhưng từ tháng 01/2016 đến nay, anh An chỉ chu
cấp 1.000.000đ/tháng với lý do mới tái hôn, phải lo toan cho gia đình mới. Chị Bé
không đồng ý với mức cấp dưỡng này, nhiều lần chị đã yêu cầu anh An phải thực
hiện trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con theo đúng phán quyết của Tòa án, nếu không
chị sẽ không cho anh An gặp con. Vì thế, giữa hai người đã nảy sinh mâu thuẫn. Nếu
được giao hòa giải vụ việc này, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa anh An và chị Bé
là do anh An không chuyển đủ mức tiền cấp nuôi dưỡng con hàng tháng sau ly
hôn theo phán quyết của Tòa án, chị Bé đã nhiều lần yêu cầu anh An thực hiện
đúng trách nhiệm của mình nếu không chị sẽ không cho anh An gặp con dẫn đến
mâu thuẫn giữa hai người.
2. Căn cứ pháp lý
- Khoản 2, Khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân & gia đình quy định: “Cha,
mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con; Sau khi ly hôn,
người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai
được cản trở”.
- Điều 83 Luật Hôn nhân & gia đình quy định: “ Cha, mẹ trực tiếp nuôi
con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ
theo quy định đối với con; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các
thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản
trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con.”
3. Hướng giải quyết

7

- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở các
quy của Luật Hôn nhân & gia đình nêu trên, phân tích cho anh An hiểu nghĩa vụ
cấp dưỡng cho con anh phải thực hiện đúng theo quyết định của Tòa án; phân
tích chị Bé hiểu chị có quyền yêu cầu anh An cấp dưỡng cho cháu Bình hàng
tháng đúng mức tiền Tòa án quyết định nhưng chị không có quyền cản trở anh
An trong việc thăm nom con.
- Thuyết phục hai bên vì lợi ích của con có thể thỏa thuận cùng nhau thực
hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng của mình với cháu Bình đảm bảo cho cháu
có cuộc sống vật chất và tinh thần tốt nhất có thể.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.
Tình huống 7. Không có tên trong di chúc có được hưởng thừa kế
Ông Kha có hai người con. Người con đầu có với vợ trước tên Lâm, đã có
gia đình riêng. Sau khi vợ mất, ông Kha kết hôn với bà Hà, hai người có một
người con chung, năm nay lên 9 tuổi. Khi biết mình bị bệnh nặng khó qua khỏi,
ông Kha đã ra Ủy ban nhân dân xã lập di chúc để lại toàn bộ tài sản là căn nhà
đang ở cho người con lớn (đây là tài sản của ông có trước khi lấy bà Hà). Vài
tháng sau, ông Kha chết. Do có mâu thuẫn từ trước nên sau khi bố mất, anh Lâm
có ý đuổi mẹ và em trai ra khỏi nhà. Bà Hà đã làm đơn đề nghị tổ hòa giải can
thiệp, giúp đỡ. Nếu được giao hòa giải vụ việc này, ông (bà) sẽ hòa giải như thế
nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: ông Kha trước khi chết di chúc để
lại toàn bộ tài sản là căn nhà đang ở cho anh Lâm( con của ông với vợ trước) đây
là tài sản của ông có trước khi lấy bà Hà. Vài tháng sau, ông Kha chết. Do có mâu
thuẫn từ trước nên sau khi bố mất, anh Lâm có ý đuổi mẹ kế là bà Hà và em trai
(cùng cha khác mẹ 9 tuổi) ra khỏi nhà.
2. Căn cứ pháp lý
- Khoản 1, Điều 644 Bộ Luật dân sự năm 2015 về người thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc quy định: “Những người sau đây vẫn được
hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật
nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập
di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba
suất đó: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có
khả năng lao động”.
- Khoản 1, Điều 103 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 về quyền, nghĩa
vụ giữa các thành viên khác của gia đình quy định: “Các thành viên gia đình có
quyền, nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, tôn trọng nhau. Quyền, lợi ích
hợp pháp về nhân thân và tài sản của các thành viên gia đình quy định tại Luật
này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan được pháp luật bảo vệ”.

8

3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở các
quy định Bộ luật dân sự năm 2015, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, hòa
giải viên cần phân tích để anh Lâm hiểu việc anh có ý đuổi mẹ và em trai ra khỏi
nhà là sai; mặc dù bố anh di chúc để lại toàn bộ tài sản cho anh nhưng theo quy
định của pháp luật thì em trai khác mẹ với anh mới 9 tuổi, vì vậy vẫn được
hưởng phần di sản của bố anh để lại bằng hai phần ba suất của một người thừa
kế theo pháp luật.
- Thuyết phục hai bên vì tình cảm gia đình, vì người cha, người chồng
không nên để xảy ra mâu thuẫn. Cần thuyết phục để anh Lâm hiểu rõ “Anh em
như thể tay chân” việc anh đuổi mẹ kế và em trai ra khỏi nhà là hình vi đi ngược
lại với những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Anh và gia đình nên ngồi
lại để cùng nhau bàn bạc đưa ra những quyết định hợp tình hợp lý.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 8. Chỉ vì cái móng xây rào

Gia đình ông H và gia đình ông T có đất giáp ranh với nhau. Để bảo vệ tài
sản trong nhà ông H xây tường rào xung quanh, khi tiến hành xây tường ông H
đào móng sát ranh giới đất với nhà ông T. Ông T không cho đào vì cho rằng
việc đào móng xây tường rào như vậy sẽ ảnh hưởng đến móng nhà của gia đình
ông và yêu cầu ông H phải dịch chuyển móng tường xa hơn ranh giới đất. Ông
H không đồng ý, cho rằng việc đào móng xây dựng tường rào là trên phần đất
thuộc quyền sử dụng của ông và ông có quyền làm theo mục đích của mình. Hai
bên gia đình mâu thuẫn và nhiều lần tranh cãi to tiếng, gây mất trật tự. Nếu được
giao hòa giải vụ việc này, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào ?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn do ông H khi xây
tường rào đã đào móng sát ranh giới đất với nhà ông T, ông T không cho đào và
yêu cầu ông H phải dịch chuyển móng tường xa hơn ranh giới đất. Ông H không
đồng ý, cho rằng việc đào móng xây dựng tường rào là trên phần đất thuộc
quyền sử dụng của ông và ông có quyền làm theo mục đích của mình.
2. Căn cứ pháp lý
- Điều 174 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nghĩa vụ tôn trọng quy tắc
xây dựng: “Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với
tài sản phải tuân theo pháp luật về xây dựng, bảo đảm an toàn, không được xây
vượt quá độ cao, khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và không
được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người có quyền
khác đối với tài sản là bất động sản liền kề và xung quanh.”

9

- Khoản 1 Điều 176 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về mốc giới ngăn
cách các bất động sản: “Chủ sở hữu bất động sản chỉ được dựng cột mốc, hàng
rào, trồng cây, xây tường ngăn trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định của Bộ luật dân sự năm 2015 tại Điều 174 quy định nghĩa vụ tôn trọng quy
tắc xây dựng và Khoản 1 Điều 176 quy định về mốc giới ngăn cách các bất động
sản. Hòa giải viên cần phân tích để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm
của mỗi bên trong vụ việc để các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn,
tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần thuyết phục hai bên không nên cãi vã to tiếng và
không để xảy ra xung đột, các bên có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới
chung. Thuyết phục để Ông H khi xây tường rào phải theo pháp luật về xây
dựng, bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao, khoảng cách mà pháp
luật về xây dựng quy định. Đồng thời, thuyết phục ông T thỏa thuận việc đào
móng xây tường để đảm bảo an toàn hai gia đình.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 9. Hệ thống nước thải tràn sang nhà hàng xóm
Anh Thành và anh Danh là hàng xóm của nhau. Thời gian gần đây, gia
đình anh Thành tiến hành tu sửa lại và có thay đổi thiết kế của căn nhà. Sau khi
hoàn thành việc tu sửa, gia đình anh Thành chuyển về sinh hoạt bình thường thì
hệ thống thoát nước thải sinh hoạt của gia đình anh Thành bị chảy sang nhà anh
Danh, gây mùi khó chịu và làm ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của gia đình
anh Danh. Mặc dù anh Danh đã nhắc nhở và yêu cầu anh Thành nghiên cứu thiết
kế lại hệ thống thoát nước thải sinh hoạt để tránh việc nước thải tràn sang gia
đình mình nhưng anh Thành không đồng ý. Hai bên xảy ra mâu thuẫn. Nếu được
hòa giải vụ việc này, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Anh Thành và anh Danh mâu
thuẫn là do hệ thống thoát nước thải sinh hoạt của gia đình anh Thành bị chảy
sang nhà anh Danh, gây mùi khó chịu và làm ảnh hưởng đến cuộc sống sinh
hoạt của gia đình anh Danh.
2. Căn cứ pháp lý
- Điều 172 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nghĩa vụ bảo vệ môi
trường: “Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thì chủ thể phải
tuân theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; nếu làm ô nhiễm môi
trường thì phải chấm dứt hành vi gây ô nhiễm, thực hiện các biện pháp để khắc
phục hậu quả và bồi thường thiệt hại.”

10

- Khoản 6 Điều 82 Luật bảo vệ môi trường năm 2014 quy định về yêu cầu
bảo vệ môi trường đối với hộ gia đình: “Giảm thiểu, xử lý và xả nước thải sinh
hoạt đúng nơi quy định”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định của Điều 172 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nghĩa vụ bảo vệ môi
trường và Khoản 6 Điều 82 Luật bảo vệ môi trường năm 2014 quy định về yêu
cầu bảo vệ môi trường đối với hộ gia đình, Hòa giải viên cần phân tích để các
bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc để các bên thỏa
thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa
thuận đó.
- Hòa giải viên cần thuyết phục anh Thành không để hệ thống thoát nước
thải sinh hoạt chảy sang nhà anh Danh, làm ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt
của gia đình anh Danh.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 10. Nhặt được chiếc máy tính bị rơi

Vào một buổi tối, trên đường đi ông A nhặt được chiếc túi, trong đó có 01
máy tính xách tay mới mua với giá 9 triệu đồng. Ông A đã liên hệ với công an
xã để thông báo cho người bị mất biết đến nhận, đồng thời mang máy tính về
nhà. Hơn một năm sau không có ai đến nhận nên ông A cho con trai là M chiếc
máy tính. Tuy nhiên, để sử dụng được máy tính M đã phải thuê sửa chữa hết 2
triệu đồng. Tình cờ một lần ông B tới nhà ông A chơi và nhận ra chiếc máy tính
mình đánh rơi năm trước nên đề nghị ông A trả lại máy. Ông A đồng ý trả lại
máy tính cho ông B nhưng đề nghị ông B trả ông 2 triệu đồng sửa máy. Ông B
không đồng ý trả ông A 2 triệu nên hai bên đã lời qua tiếng lại gây mâu thuẫn,
tranh chấp. Nếu được giao hòa giải vụ việc, ông/bà làm thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
Mâu thuẫn giữa ông A và ông B về việc chiếc máy tính ông A nhặt được
của ông B và đã sửa máy tính hết 02 triệu đồng. Ông B đòi nhận lại chiếc máy
tính ông A nhặt được của ông B trước đó nhưng không chịu trả số tiền 2 triệu
đồng mà ông A đã bỏ ra để sửa máy tính.
2. Căn cứ pháp lý
Căn cứ Điều 230 của Bộ luật Dân sự 2015 về xác lập quyền sở hữu đối
với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên, quy định:
1. Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được
địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản
cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải

11

thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi
gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông
báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.
2. Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác
đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không
đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:
a) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng
mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác
lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định
khác của pháp luật có liên quan; trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần
mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người
nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy
định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước
quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;”.
3. Hướng giải quyết
- Việc ông A nhặt được chiếc máy tính và đã báo cho Công an xã để
thông báo cho người mất, đồng thời mang máy tính về nhà chờ người đến nhận
là hoàn toàn đúng pháp luật.
- Sau hơn một năm thông báo công khai nhặt được chiếc máy tính có giá
trị 9 triệu và không có ai đến nhận thì việc ông A xác lập quyền sở hữu là hoàn
toàn đúng pháp luật (ông A cho con trai sử dụng máy tính).
- Về phía ông B: phân tích để ông B hiểu theo quy định của pháp luật thì
giờ chiếc máy tính thuộc quyền sở hữu của ông A. Tuy nhiên, ông A đã đồng ý
trả lại tài sản cho ông B và chỉ yêu cầu số tiền 2 triệu đã sữa chữa máy tính là
hoàn toàn hợp lý, thuyết phục để ông B đồng ý.
- Khuyên ông A và ông B không nên cãi vã, to tiếng với nhau sẽ làm mất
tình đoàn kết giữa hai gia đình và ảnh hưởng đến xóm, bản. Vận dụng truyền
thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về tình làng, nghĩa xóm "Bán anh em
xa mua láng giềng gần", "Mình vì mọi người, mọi người vì mình", "Không nên
tham của người khác", "Đói cho sạch, rách cho thơm" .
Tình huống 11. Bán tài sản thừa kế

Ông bà K sinh được 3 người con gái. Cả ba người đều đã xây dựng gia
đình và ra ở riêng. Khi mất, ông bà K có để lại di chúc chung, chia đều toàn bộ
di sản gồm ngôi nhà và diện tích đất đang ở cho 3 người con gái. Sau khi cả bố
và mẹ mất, do ở xa và muốn có chỗ để thờ tự và cũng là nơi để cả ba chị em gặp
nhau vào những ngày giỗ chạp, lễ, tết, người con gái thứ 2 và con gái út thoả
thuận giao toàn bộ phần di sản thuộc quyền thừa kế của mình cho người chị cả
quản lý. Do mải cờ bạc, lô đề, người chị cả muốn bán toàn bộ nhà đất đó nhưng
cả hai em gái đều không đồng ý và tuyên bố nếu chị bán thì cả hai người sẽ đòi
lại phần của họ đã giao cho người chị quản lý, bất đồng trong gia đình ngày càng

12

lớn, hai người em gái đã tìm đến tổ hoà giải đề nghị giúp đỡ. Nếu được giao hòa
giải vụ việc này, ông (bà) sẽ làm thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
- Mâu thuẫn giữa 3 chị em gái về tranh chấp di sản thừa kế.
- Nguyên nhân: Người em út và người em thứ 2 thỏa thuận giao quyền
quản lý di sản thừa kế cho chị cả quản lý, nhưng do thua lô đề, cờ bạc người chị
cả muốn bán toàn bộ nhà đất nhưng 2 người em không đồng ý .
2. Căn cứ pháp lý
Căn cứ Điều 616 Luật Dân sự 2015 quy định về người quản lý di sản:
1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do
những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
Căn cứ khoản 1 Điều 617 Bộ luật Dân sự 2015 quy định nghĩa vụ của
người quản lý di sản:
1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ
luật này có nghĩa vụ sau đây:
a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà
người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp
hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa
kế đồng ý bằng văn bản;
c) Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;
d) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.
3. Hướng giải quyết
Hòa giải viên cần phân tích để các bên hiểu được các quy định của pháp luật:
- Gặp người chị cả phân tích: Sau khi thực hiện quyền hưởng di sản thừa
kế, người chị cả đã được các em thỏa thuận giao quyền quản lý di sản tài sản
thừa kế, do đó người chị cả phải có nghĩa vụ, trách nhiệm bảo quản di sản;
không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng
hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;
Việc người chị cả do chơi lô đề, cờ bạc và có ý định bán toàn bộ nhà đất
(tài sản thừa kế của cả 3 chị em) và không được sự chấp thuận của hai người em
là đã vi phạm quy định của pháp luật.
Phân tích cho người chị cả hiểu các em đã tín nhiệm mình giao cho mình
quản lý di sản thừa kế mình phải có trách nhiệm trông nom, chăm sóc, giữ gìn

13

nơi thờ tự, cúng giỗ cha mẹ, thể hiện cái đạo của người người làm con. Đừng để
lòng ích kỷ cá nhân ảnh hưởng đến tình cảm chị em.
- Về phía 2 người em: thuyết phục để 2 người em bình tĩnh nói chuyện với
người chị để người chị hiểu được ý nghĩa, giá trị của việc giữ lại di sản thừa kế.
Nếu trường hợp người chị cả cương quyết không nghe và không nhất trí thì cả 3
chị em cùng bàn bạc, giải quyết chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật,
tránh gây hiềm khích ảnh hưởng đến tình cảm, đoàn kết gia đình; đồng thời phân
tích để người chị cả thấy được cái mất, cái sai trong khi chơi lô đề, cờ bạc để từ
bỏ con đường đó.
- Vận dụng truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: “anh, em
như thể tay chân; rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần” , “công cha như núi thái
sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con”...

Tình huống 12. Chiếc xe đạp mini

Cháu A (12 tuổi) đã bán chiếc xe đạp mini Nhật mà bố mẹ mua cho để đi
học cho ông L (thợ sửa xe đạp đầu phố) với giá 01 triệu đồng . Sau khi phát hiện
sự việc, bố mẹ A đã tìm gặp ông L đề nghị được chuộc lại chiếc xe nhưng ông L
không đồng ý vì cho rằng việc mua bán giữa ông và A là hoàn toàn tự nguyện.
Hơn nữa, sau khi mua xe, ông đã thay đổi một số phụ tùng của xe, sửa chữa xe.
Nếu bố mẹ A muốn lấy lại xe thì ngoài khoản tiền 1 triệu phải trả thêm cho ông
600.000 đồng nữa. Bố mẹ A chỉ đồng ý trả thêm 200.000 đồng vì cho rằng phụ
tùng ông L thay thế chỉ có giá như vậy. Hai bên lời qua tiếng lại, bố mẹ A đã tìm
đến Tổ hòa giải đề nghị giúp đỡ. Nếu được phân công thực hiện hòa giải vụ việc
trên, ông/bà tiến hành hòa giải thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
- Mâu thuẫn xảy ra giữa bố mẹ cháu A và ông L về chiếc xe đạp mà A đã
tự ý bán cho ông L.
- Nguyên nhân: bố mẹ A đề nghị ông L trả lại chiếc xe đạp còn ông L thì
không chịu trả lại.
2. Căn cứ pháp lý
- Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "Khi giao dịch dân sự do
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố
giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do
người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định
tại khoản 2 Điều này ";
- Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu: "Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay

14

đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Khi
giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận; trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật
thì trị giá thành tiền để hoàn trả. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức
không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi
thường. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến
quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định".
3. Hướng giải quyết
- Giải thích cho hai bên xác định việc mua bán xe giữa ông L và cháu A là
giao dịch dân sự vô hiệu vì cháu A mới 14 tuổi.
- Khẳng định việc mua bán xe đạp giữa ông L và cháu A (14 tuổi) mà
không có sự đồng ý của cha mẹ A nên đây là giao dịch dân sự vô hiệu.
- Do đây là giao dịch dân sự vô hiệu nên ông L phải trả lại xe đạp cho A và
bố mẹ A phải hoàn lại số tiền mà A đã nhận từ ông L. Hòa giải viên thuyết phục 02
bên thỏa thuận với nhau, nêu hậu quả pháp lý khi 02 bên phải ra tòa giải quyết.

Tình huống 13. Bán xe khi vợ vắng nhà

Trong lúc vợ vắng nhà nửa tháng, Cường đã tự ý bán chiếc xe đạp điện
thuộc sở hữu của vợ cho ông Cương cùng xóm với giá 5 triệu đồng và khẳng
định đã bàn bạc, thống nhất với vợ việc bán xe để lấy tiền trả nợ thua bạc. Hai
bên ký giấy mua bán viết tay, trao tiền và nhận xe. Khi về nhà và biết chuyện,
chị Hạnh (vợ Cường) đã gặp ông Cương đề nghị hủy hợp đồng mua bán xe và
trả lại xe với lý do đó là chiếc xe thuộc sở hữu của chị, là vật kỷ niệm của gia
đình bên ngoại tặng. Ông Cương nói đã bán cho anh Vui, nếu chị Hạnh muốn
lấy lại xe thì đến gặp anh Vui mà chuộc lại. Chị Hạnh đến gặp anh Vui đề nghị
nhận lại xe và trả đủ tiền cho anh nhưng anh Vui không đồng ý vì anh mua xe
của ông Cương chứ không mua xe của Hạnh. Chị Hạnh đã liên hệ với Tổ hòa
giải đề nghị giúp đỡ chị. Là hòa giải viên được phân công tham gia hòa giải vụ
việc, ông/ bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
- Mâu thuẫn xảy ra giữa chị Hạnh và anh Vui về việc chiếc xe đạp điện .
- Nguyên nhân: Do anh Cường (chồng chị Hạnh) tự ý bán chiếc xe đạp
điện thuộc quyền sở hữu của vợ cho ông Cương và ông Cương lại bán lại chiếc
xe cho anh Vui.
2. Căn cứ pháp lý
Căn cứ Điều 133 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là
tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì

15

giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường
hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này.
2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch
dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký
đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường
hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ
chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này
không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
3. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình,
nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2
Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao
dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi
thường thiệt hại.
Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 quy định tội trộm cắp tài sản
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng
đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong
các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà
còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều
168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình
họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối
với người bị hại.
Điều 137 Bộ luật Dân sự 2015 quy định hậu quả pháp lý của giao
dịch dân sự vô hiệu:
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban
đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện
vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức
thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải
bồi thường.

16

3. Hướng giải quyết
Hòa giải viên cần phân tích để các bên hiểu được các quy định của
pháp luật:
- Về phía anh Cường (chồng chị Hạnh): Chiếc xe đạp điện là tài sản đăng
ký quyền sở hữu của chị Hạnh do đó anh Cường không phải là chủ sở hữu của
chiếc xe đạp điện cũng không được chủ sở hữu ủy quyền hợp pháp. Hành động
tự ý lấy xe và bán của anh Cường có thể phạm vào tội trộm cắp tài sản ( theo
Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 ) khi thỏa mãn các dấu hiệu:
+ Mặt khách quan: Hành vi lấy xe đi bán khi chưa có sự đồng ý của chủ
sở hữu.
+ Chủ thể: Có năng lực trách nhiệm hình sự.
+ Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp.
- Về phía chị Hạnh: thuyết phục chị bình tĩnh giải quyết vấn đề nói
chuyện với chồng để thỏa thuận về việc trả lại tiền cho người mà anh đã bán
chiếc xe.
- Về phía ông Cương và anh Vui: phân tích chiếc xe đạp điện là tài sản
phải đăng ký quyền sở hữu, có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu. Do đó, việc
anh Cường có lấy đăng ký quyền sở hữu xe mang đi bán thì người mua xe phải
biết rằng chiếc xe này không thuộc quyền sở hữu của người bán và là tài sản bất
hợp pháp, tuy nhiên vẫn thực hiện mua bán. Trường hợp này ông Cương và anh
Vui không được coi là người thứ ba ngay tình khi xảy ra tranh chấp vì đối với tài
sản phải đăng ký quyền sở hữu  thì bắt buộc khi trở thành đối tượng của giao
dịch dân sự phải thực hiện thủ tục sang tên, đổi chủ giấy tờ xe… mà anh Vui lại
không có giấy tờ nào chứng minh quyền sở hữu thì sẽ không thực hiện được thủ
tục này, do đó hợp đồng mua bán này không có giá trị pháp lý và được xem là
vô hiệu. Do giao dịch dân sự này vô hiệu nên theo quy định của pháp luật thì các
bên mua, bán xẽ hoàn trả lại cho nhau xe và tiền.

Tình huống 14. Chỉ vì hàng râm bụt

Nhà ông C và bà T là hai hộ liền kề, ranh giới giữa hai nhà là hàng cây
râm bụt được trồng từ hơn 20 năm nay. Để chuẩn bị tổ chức lễ cưới cho con trai,
ông C đề nghị cho phá hàng râm bụt để xây tường rào chung, nhưng bà T không
đồng ý. Theo bà T, ông C muốn xây tường thì cứ xây trên phần đất nhà mình,
nếu phá hàng râm bụt sẽ lấn sang phần đất nhà bà. Ông C cho rằng hàng râm bụt
là ranh giới chung giữa 2 gia đình, việc xây tường rào là vì lợi ích chung nên
ông vẫn xây tường, kể cả bà T không đồng ý. Hôm ông C xây dựng tường rào,
các con bà T đã ngăn cản, không cho tiến hành dẫn đến cãi vã to tiếng và nguy
cơ xảy ra xung đột. Nếu được phân công hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ tiến hành
hòa giải thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn

17

- Mâu thuẫn xảy ra giữa ông C và bà T về ranh giới giữa hai nhà.
- Nguyên nhân: ông C phá bỏ cây râm bụt là ranh giới giữa hai nhà để xây
tường chung.
2. Căn cứ pháp lý
- Căn cứ Điều 175 của Bộ luật dân sự 2015 về ranh giới giữa các bất động
sản quy định:
1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận
hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới
đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp.
Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp
ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn
trọng, duy trì ranh giới chung.
2. Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều
thẳng đứng từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và
không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác.
Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn
viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu
rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, cắt, tỉa cành phần vượt quá,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Căn cứ khoản 2 điều 176 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Các chủ sở
hữu bất động sản liền kề có thể thỏa thuận với nhau về việc dựng cột mốc, hàng
rào, trồng cây, xây tường ngăn trên ranh giới để làm mốc giới ngăn cách giữa
các bất động sản; những vật mốc giới này là sở hữu chung của các chủ thể đó.
Trường hợp mốc giới ngăn cách chỉ do một bên tạo nên trên ranh giới và
được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý thì mốc giới ngăn cách đó là sở
hữu chung, chi phí để xây dựng do bên tạo nên chịu, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác; nếu chủ sở hữu bất động sản liền kề không đồng ý mà có lý do chính
đáng thì chủ sở hữu đã dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn phải
dỡ bỏ.
3. Hướng giải quyết
- Về phía ông C nên bàn bạc, thuyết phục bà T thấy được việc làm của
ông là xuất phát từ lợi ích chung của hai gia đình mà đồng ý cho xây tường rào
và mọi chi phí xây dựng do ông C tự chịu. Nếu Bà T không đồng ý, mà ông C tự
ý phá dỡ, xây tường rào như vậy là sai.
- Về phía bà T: khuyên bà cũng nên vì tình làng nghĩa xóm bấy lâu nay
và xét thấy ý định của ông C là vì lợi ích chung mà đồng ý cho ông C xây tường
rào trên ranh giới giữa hai nhà là tốt nhất. Chi phí do ông C chịu và pháp luật đã
quy định đó là tường rào chung. Đi đâu mà thiệt phải không bà, sạch đẹp cả hai
nhà, coi như món quà bà mừng cưới cho cháu.

18

- Đồng thời khuyên hai ông, bà khuyên bảo các con không nên mất bình
tĩnh có những việc làm không hay, mất đi tình cảm xóm giềng, mọi người trong
thôn.
- Vận dụng truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về tình làng,
nghĩa xóm "Bán anh em xa mua láng giềng gần", “tối lửa tắt đèn có nhau”...
Tình huống 15. Quyền về tưới nước, tiêu nước trong canh tác
Thửa rộng của hai nhà ông Thanh và bà Loan ở cạnh nhau. Do ruộng nhà
ông Thanh nằm cao hơn ruộng nhà bà Loan, nên mỗi lần có nước thủy lợi về,
ông Thanh phải be đắp bờ cho nước không chảy xuống ruộng nhà bà Loan để
không làm mất màu của đất. Mỗi lần be bờ, đắp đất như vậy, ruộng nhà bà Loan
nhận được một lượng nước rất ít, không bảo đảm canh tác. Bà Loan đã nhắc
nhở, đề nghị ông Thanh không be bờ, đắp đất để ruộng bà còn lấy nước nhưng
ông Thanh không nghe. Mỗi lần nước thủy lợi về là một lần hai bên xích mích,
cãi vã nhau, nếu để kéo dài hậu quả sẽ khó lường. Bà Loan đã liên hệ với Tổ hòa
giải đề nghị giúp đỡ bà. Được giao tiến hành hòa giải vụ việc này, ông/bà sẽ hòa
giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa ông Thanh và bà
Loan là do ông Thanh be đắp bờ cho nước không chảy xuống ruộng nhà bà
Loan, ruộng nhà bà Loan được một lượng nước rất ít, không đảm bảo canh tác.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 253 Bộ luật dân sự năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định quyền về tưới nước, tiêu nước trong canh tác: “Người có
quyền sử dụng đất canh tác khi có nhu cầu về tưới nước, tiêu nước, có quyền
yêu cầu những người sử dụng đất xung quanh để cho mình một lối dẫn nước
thích hợp, thuận tiện cho việc tưới, tiêu; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp
ứng yêu cầu đó; nếu người sử dụng lối dẫn nước gây thiệt hại cho người sử
dụng đất xung quanh thì phải bồi thường.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Điều 253 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định quyền về tưới nước, tiêu nước
trong canh tác để phân tích các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi
bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh
chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm “ở
nhà có láng giềng nhà, ở đồng có láng giềng đồng” và thuyết phục hai bên
không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Đề nghị ông Thanh để cho bà
Loan một lối dẫn nước thích hợp, thuận tiện cho việc tưới ruộng. Đề nghị Bà
Loan khi sử dụng lối dẫn nước phải đảm bảo không làm ảnh hưởng đến ruộng
nhà ông Thanh, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

19

- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 16. Lối đi chung của hai gia đình

Nhà ông Cường và ông Hải ở cạnh nhau, ông Cường ở trong, ông Hải ở
ngoài. Hai hộ sử dụng lối đi chung và đây cũng là lối đi duy nhất vào nhà ông
Hải. Tuấn (là con ông Hải) thường tụ tập bạn bè ăn nhậu tại nhà vào mỗi chiều
tối thứ sáu. Mỗi lần ăn nhậu là một lần ồn ào, náo nhiệt, xe cộ để lộn xộn, ngăn
cả lối đi. Ông Cường nhiều lần nhắc nhở Tuấn và ông Hải về việc này để không
làm ảnh hưởng đến khu xóm, nếu không ông sẽ rào đường, không cho đi chung
ngõ nữa. Tuy nhiên, tình trạng không có chuyển biến tích cực, thậm chí Tuấn
còn thách thức ông Cường. Bực mình, cứ mỗi chiều tối thứ bảy ông Cường kê
bàn ghế ra ngõ ngồi uống nước, không cho để xe cộ và làm ảnh hưởng đến việc
đi lại của hộ gia đình ông Hải. Mâu thuẫn, xích mích giữa hai hộ ngày càng gia
tăng và có biểu hiện phức tạp. Được giao hòa giải vụ việc trên, ông/bà sẽ hòa
giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa nhà ông Cường
và nhà ông Hải là do mâu thuẫn về lối đi chung của hai gia đình
2. Căn cứ pháp lý
Điều 254 Bộ luật dân sự năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định về Quyền về lối đi qua: “1. Chủ sở hữu có bất động sản bị
vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không
đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây
bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.
Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và
hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản
bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.
Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ
sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên
thỏa thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên;
nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác xác định.
3. Trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở
hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người
phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Điều 254 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về Quyền về lối đi qua để

20

phân tích các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và
các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực
hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm và
thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Thuyết
phục anh Tuấn con ông Hải không nên gây ồn ào, để xe cộ không được ngăn cản
lối đi chung và không làm ảnh hưởng đến khu xóm. Đồng thời, đề nghị ông
Cường không kê bàn ghế ra ngõ, không làm ảnh hưởng đến việc đi lại của hộ gia
đình ông Hải vì đây là lối đi chung các bên phải tôn trọng.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.
Tình huống 17. Mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất

động sản khác

Nhà ông Dinh và ông Sinh ở cạnh nhau, nhà ông Dinh ở ngoài, nhà ông
Sinh ở trong. Khi ông Sinh làm nhà đã xin phép để đường dây tải điện và đường
dây điện thoại đi qua nhà ông Dinh, những ông Dinh không đồng ý, vì vậy hai
bên đã lời qua tiếng lại, gây xích mích, không ai chịu ai, xung đột, mâu thuẫn
giữa hai nhà có nguy cơ nảy sinh. Được giao hòa giải vụ việc trên, ông/bà sẽ hòa
giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Nhà ông Dinh và ông Sinh mâu
thuẫn là do đường dây tải điện và đường dây điện thoại nhà ông Sinh đi qua nhà
ông Dinh.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 255 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định về mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất động
sản khác: “Chủ sở hữu bất động sản có quyền mắc đường dây tải điện, thông tin
liên lạc qua bất động sản của các chủ sở hữu khác một cách hợp lý, nhưng phải
bảo đảm an toàn và thuận tiện cho các chủ sở hữu đó; nếu gây thiệt hại thì phải
bồi thường.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Điều 255 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về mắc đường dây tải điện,
thông tin liên lạc qua bất động sản khác để phân tích các bên hiểu rõ về quyền
lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết
các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm và
thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Thuyết
phục ông Dinh để cho ông Sinh mắc đường dây tải điện và đường dây điện thoại

21

một cách hợp lý. Đề nghị khi mắc đường dây, ông Sinh phải bảo đảm an toàn
và không được làm ảnh hưởng, thiệt hại đến nhà ông Dinh.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.
Tình huống 18. Quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong việc thực
hiện hợp đồng mua bán tài sản
Là hàng xóm thân thiết nhiều năm, ông Bình có nhu cầu được mua con bò
cái của ông Tâm để nhân giống với giá 12 triệu đồng. Hai bên đã thống nhất
việc mua bán, ông Bình trao đủ 12 triệu cho ông Tâm, riêng việc nhận bò, hai
bên thống nhất hai hôm sau sẽ giao nhận để được ngày tốt. Hôm sau, ông Tâm
nghĩ lại thấy bán bò giá đó là thấp, lại biết được con bò cái đó đang có chửa nên
tiếc không muốn bán. Vì thế, hôm ông Bình sang nhận bò, ông Tâm đã không
giao mà đề nghị ông Bình chấm dứt việc mua bán bò, ông Tâm sẽ trả lại 12 triệu
đồng cho ông Bình. Vì muốn có được con bò tốt, ông Bình đã không đồng ý do
việc mua bán đã hoàn thành, tiền ông đã trả, chỉ còn mỗi việc giao nhận bò nên
không có lý do gì để chấm dứt việc mua bán cả. Vì thế hai bên đã xảy ra tranh
chấp, lời qua tiếng lại.
Nếu được phân công hòa giải vụ việc trên, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên phân mâu thuẫn
Ông Bình trao đủ 12 triệu cho ông Tâm để mua bò cái nhân giống. Hôm
ông Bình sang nhận bò, ông Tâm đã không giao mà đề nghị ông Bình chấm dứt
việc mua bán bò, ông Tâm sẽ trả lại 12 triệu đồng cho ông Bình vì ông Tâm
nghĩ lại thấy bán bò giá đó là thấp, lại biết được con bò cái đó đang có chửa nên
tiếc không muốn bán.
2. Căn cứ pháp lý
- Khoản 1, Điều 119 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Giao dịch dân
sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể”
- Điều 430, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng mua bán tài
sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản
cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán”
- Khoản 1, Điều 434 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Thời hạn thực
hiện hợp đồng mua bán do các bên thoả thuận. Bên bán phải giao tài sản cho
bên mua đúng thời hạn đã thoả thuận; bên bán chỉ được giao tài sản trước hoặc
sau thời hạn nếu được bên mua đồng ý”.
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở các
quy của Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu trên. Hòa giải viên cần phân tích để các
bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong việc thực hiện hợp đồng

22

mua bán tài sản để các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp
và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Thuyết phục ông Tâm thực hiện đúng việc giao bò cái cho ông Bình như đã
thỏa thuận ban đầu, mặt khác có thể thuyết phục ông Bình là hàng xóm thân thiết
nhiều năm trả thêm cho ông Tâm một khoản tiền nhỏ để cả hai bên cùng có lợi.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng
dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Tình huống 19. Điều chỉnh tăng giá trong thời gian cho thuê nhà
Bà Quỳnh cho bà Nhàn thuê nhà để kinh doanh tạp hóa. Theo nội dung
hợp đồng thuê nhà đã được công chứng, giá thuê nhà là 03 triệu đồng/1 tháng;
tiền thuê được trả định kỳ 02 lần/1 năm (vào ngày đầu tiên của tháng 12 và
tháng 6), mỗi lần trả 18 triệu đồng; ngay sau khi kí hợp đồng, phải trả trước 18
triệu đồng; thời hạn thuê là 05 năm, hết thời hạn hai bên sẽ thỏa thuận lại việc
cho thuê nhà. Sau khi thuê nhà được 01 năm, trong lúc đang kinh doanh tốt thì
bà Quỳnh đề nghị tăng giá thuê nhà lên 3,5 triệu đồng/tháng do nhà ông Thành
đối diện cũng đang cho thuê với giá đó trong khi diện tích và điều kiện kinh
doanh không tốt bằng, nếu không bà Quỳnh sẽ không cho thuê nhà nữa. Bà
Nhàn không đồng tình vì thời hạn cho thuê chưa hết, hợp đồng đã quy định rõ số
tiền thuê, không có nội dung về việc điều chỉnh tăng giá trong thời gian cho
thuê. Hai bên đã phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp làm ảnh hưởng đến việc kinh
doanh của bà Nhàn. Nếu được phân công hòa giải vụ việc này, ông (bà) sẽ hòa
giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
Bà Quỳnh đề nghị tăng giá thuê nhà, bà Nhàn không đồng tình vì thời hạn
cho thuê chưa hết, hợp đồng đã quy định rõ số tiền thuê, không có nội dung về
việc điều chỉnh tăng giá trong thời gian cho thuê.

2. Căn cứ pháp lý
- Điều 472 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Hợp đồng thuê tài sản là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để sử
dụng trong một thời hạn, bên thuê phải trả tiền thuê.
Hợp đồng thuê nhà ở, hợp đồng thuê nhà để sử dụng vào mục đích khác
được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật nhà ở và quy định khác của
pháp luật có liên quan”.
- Khoản 1, khoản 2 Điều 129 Luật nhà ở năm 2014 quy định: “1. Bên
cho thuê và bên thuê nhà ở được thỏa thuận về thời hạn thuê, giá thuê và hình
thức trả tiền thuê nhà theo định kỳ hoặc trả một lần; trường hợp Nhà nước có
quy định về giá thuê nhà ở thì các bên phải thực hiện theo quy định đó.

23

2. Trường hợp chưa hết hạn hợp đồng thuê nhà ở mà bên cho thuê thực
hiện cải tạo nhà ở và được bên thuê đồng ý thì bên cho thuê được quyền điều
chỉnh giá thuê nhà ở. Giá thuê nhà ở mới do các bên thỏa thuận; trường hợp
không thỏa thuận được thì bên cho thuê có quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng thuê nhà ở và phải bồi thường cho bên thuê theo quy định của pháp luật.”
- Khoản 2 Điều 132 Luật nhà ở năm 2014 quy định: “Bên cho thuê nhà ở
có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà và thu hồi nhà ở
đang cho thuê khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Bên cho thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, nhà ở xã hội cho thuê
không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không đúng điều kiện theo quy
định của Luật này;
b) Bên thuê không trả tiền thuê nhà ở theo thỏa thuận từ 03 tháng trở lên
mà không có lý do chính đáng;
c) Bên thuê sử dụng nhà ở không đúng mục đích như đã thỏa thuận trong
hợp đồng;
d) Bên thuê tự ý đục phá, cơi nới, cải tạo, phá dỡ nhà ở đang thuê;
đ) Bên thuê chuyển đổi, cho mượn, cho thuê lại nhà ở đang thuê mà không
có sự đồng ý của bên cho thuê;
e) Bên thuê làm mất trật tự, vệ sinh môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sinh hoạt của những người xung quanh đã được bên cho thuê nhà ở hoặc tổ
trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc lập biên bản đến
lần thứ ba mà vẫn không khắc phục;
g) Thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 129 của Luật này”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật nhà ở năm 2014 nêu trên. Hòa giải viên cần
phân tích để bà Quỳnh hiểu việc đòi tăng giá thuê nhà do nhà ông Thành đối
diện cũng đang cho thuê giá đó không thuộc một trong các trường hợp đơn
phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà trước thời hạn. Các bên hiểu rõ về quyền
lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong việc thực hiện hợp đồng để thuyết phục bà
Quỳnh thực hiện hợp đồng như ban đầu đã ký kết, mặt khác thuyết phục bà Nhàn
để không ảnh hưởng đến việc kinh doanh của bà có thể xem xét tăng một phần giá
tiền thuê nhà do trượt giá theo yêu cầu của bà Quỳnh. Hai bên cùng thương lượng,
thống nhất để giải quyết mâu thuẫn cùng nhau hợp tác làm ăn.
- Trong trường hợp các bên không thỏa thuận việc giải quyết các mâu
thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 20. Tranh chấp đất đai giữa 2 gia đình

24

Gia đình ông Đại ký hợp đồng chuyển nhượng 8.666 m 2 đất rẫy cà phê
cho gia đình ông Hưng, với số tiền là 700 triệu đồng. Hai bên đã hoàn tất thủ tục
chuyển nhượng, sang tên trước bạ. Ông Hưng đã trả ông Đại 500 triệu đồng (số
tiền còn lại là 200 triệu đồng ông Hưng hứa sẽ trả sau mùa cà phê). Việc giao
nhận đất và nhận tiền có lập thành biên bản, riêng việc đo đạc thửa đất không
được tiến hành mà chủ yếu trên sổ sách giấy tờ. Sau khi nhận chuyển nhượng,
ông Hưng thuê máy nhổ cà phê để trồng tiêu và tiến hành đo đạc thì diện tích
thực tế của thửa đất chỉ là 8.168 m 2 (thiếu 498 m 2 ). Ông Hưng đề nghị ông Đại
cắt diện tích của thửa đất bên cạnh mà gia đình ông đang ở cho đủ diện tích còn
thiếu. Ông Đại không đồng ý đất đã sát tường nhà, nếu lấy thêm thì bị lấn vào
diện tích nhà ông đang ở gây bất tiện cho việc sử dụng về sau. Để bù lại, ông
Đại đề nghị trả lại ông Hưng số tiền tương ứng với phần diện tích đất còn thiếu
bằng cách trừ đi số tiền chưa nhận đủ. Ông Hưng không đồng ý và nhất quyết đề
nghị ông Đại phải trao đủ diện tích như đã chuyển nhượng. Nếu được giao hòa
giải vụ việc này, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Gia đình ông Đại ký hợp đồng
chuyển nhượng 9.666 m 2 đất rẫy cà phê cho gia đình ông Hưng. Ông Hưng tiến
hành đo đạc diện tích thực tế của thửa đất thiếu 498 m 2 . Ông Hưng đề nghị ông
Đại cắt diện tích của thửa đất bên cạnh mà gia đình ông đang ở cho đủ diện tích
còn thiếu. Ông Đại không đồng ý và đề nghị trả lại ông Hưng số tiền tương ứng
với phần diện tích đất còn thiếu bằng cách trừ đi số tiền chưa nhận đủ. Ông
Hưng không đồng ý và nhất quyết đề nghị ông Đại phải trao đủ diện tích như đã
chuyển nhượng.
2. Căn cứ pháp lý:
- Điều 503 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Việc chuyển quyền sử
dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký theo quy định của Luật đất đai”.
- Điều 692 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Việc chuyển quyền sử dụng
đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật về đất đai."
- Theo quy định của mẫu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất: “
Bên chuyển nhượng phải chuyển giao đủ diện tích, đúng hiện trạng và các giấy
tờ liên quan đến thửa đất chuyển nhượng và các tài sản kèm theo cho bên nhận
chuyển nhượng khi hợp đồng này có hiệu lực”
3. Hướng giải quyết:
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật đất đai năm 2013 nêu trên, hòa giải viên cần
phân tích để ông Đại hiểu về trách nhiệm nhiệm của bên chuyển nhượng quyền
sử dụng đất phải chuyển giao đủ diện tích, đúng hiện trạng và các giấy tờ liên
quan đến thửa đất chuyển nhượng và các tài sản kèm theo cho bên nhận chuyển
nhượng khi hợp đồng này có hiệu lực.

25

- Thuyết phục 2 bên thương lượng, tự thỏa thuận với nhau để tiếp tục thực
hiện thủ tục chuyển nhượng theo quy định pháp luật và thỏa thuận lại giá cả trả
cho phần diện tích còn thiếu theo hướng có lợi cho cả 2 bên. Vì vậy, cách tốt nhất
là các bên nên thương lượng, thỏa thuận với nhau để tiếp tục thực hiện thủ tục
chuyển nhượng theo quy định pháp luật và thỏa thuận lại giá cả cũng như diện
tích chuyển nhượng sao cho giao dịch thành công.
- Trong trường hợp các bên không thỏa thuận việc giải quyết các mâu
thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 21. Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác
Gia đình ông A có nuôi một con trâu mộng. Một đêm mưa, do cài then
chuồng trại không chặt, gió thổi mạnh làm bật cửa, con trâu đã xổng chuồng
chạy sang rộng nhà bà B gần đó ăn gần hết ruộng lúa. Sáng ra, bà B phát hiện
con trâu đang nằm no kễnh bên ruộng lúa nhà mình nên đã giữ lại và yêu cầu
ông A phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do con trâu gây ra. Tuy nhiên, ông A chỉ
chấp nhận đền bù cho bà một nửa, vì ông không cố ý thả trâu vào phá ruộng mà
là do trâu xổng chuồng tự phá hoại. Mỗi người một ý, chẳng ai chịu ai, mâu
thuẫn ngày càng gay gắt. Nếu được giao hòa giải vụ việc, ông (bà) sẽ hòa giải
như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Con Trâu mộng của gia đình ông
A xổng chuồng chạy sang rộng nhà bà B gần đó ăn gần hết ruộng lúa. Bà B yêu
cầu ông A phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do con trâu gây ra. Tuy nhiên, ông
A chỉ chấp nhận đền bù cho bà một nửa, vì ông không cố ý thả trâu vào phá
ruộng mà là do trâu xổng chuồng tự phá hoại.
2. Căn cứ pháp lý
Khoản 1, Điều 603 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “1. Chủ sở hữu
súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác....”
- Khoản 1,2,3 Điều 585 Bộ luật dân sự 2015 quy định về nguyên tắc bồi
thường thiệt hại như sau: “1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và
kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường
bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường
một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi
thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng
kinh tế của mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại
hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác thay đổi mức bồi thường”.
3. Hướng giải quyết

26

- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Bộ luật Dân sự năm 2015, hòa giải viên phân tích để ông A hiểu việc con trâu
nhà mình đã xổng chuồng chạy sang rộng nhà bà B gần đó ăn gần hết ruộng lúa,
cho dù là lỗi vô ý thì vẫn vi phạm quy định của pháp luật hiện hành.
- Thuyết phục bà B hiểu việc con trâu nhà ông A đã xổng chuồng chạy
sang ăn gần hết ruộng lúa nhà bà là do lỗi vô ý, thiệt hại xảy ra là ngoài ý muốn
của ông A, do vậy việc đòi bồi thường toàn bộ thiệt hại do con trâu gây ra là
không nên. Hai gia đình có thể thỏa thuận với nhau về mức bồi thường và hình
thức bồi thường cho đúng quy định của pháp luật nhằm giữ tình làng, nghĩa
xóm.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các
bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tình huống 22. Chuyện chiếc máy tính

Một tối đi đường, bà Ánh nhặt được chiếc túi, trong đó có 01 máy tính
xách tay, 05 triệu đồng và một số giấy tờ tùy thân của ông Bình nhưng không rõ
địa chỉ. Bà Ánh đã liên hệ với cán bộ xã để thông báo cho người bị mất biết đến
nhận, đồng thời mang tiền, máy tính về nhà; giao máy tính cho con trai là Minh
sử dụng, do vô tình Minh đã làm đổ chai nước dẫn đến chập điện và hỏng máy
tính. Ba ngày sau, ông Bình đến nhà bà Ánh xin nhận lại tài sản đã đánh rơi. Bà
Ánh đồng ý trả lại 5 triệu và giấy tờ tùy thân cho ông Bình, riêng máy tính do đã
chập điện và hỏng lên bà Ánh xin phép ông Bình thứ lỗi và chấp nhận đền bù 03
triệu đồng. Ông Bình không đồng ý vì máy tính đó ông mới mua giá 12 triệu
đồng, ít nhất Bà Ánh phải bồi thường 8 triệu, do không thống nhất được mức bồi
thường nên hai bên đã lời qua tiếng lại gây mâu thuẫn, tranh chấp. Nếu được
giao hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào ?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa bà Ánh và ông
Bình là do bà Ánh nhặt được máy tính của ông Bình giao cho con trai là Minh
sử dụng, do vô tình Minh làm đổ chai nước dẫn đến chập điện và hỏng máy tính.
Bà Ánh và ông Bình không thỏa thuận được mức bồi thường máy tính bị hỏng.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 230 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh
rơi, bỏ quên:
“1. Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết
được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại
tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên
thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an
cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông
báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.

27

2. Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác
đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không
đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:
a) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng
mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác
lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định
khác của pháp luật có liên quan; trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần
mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người
nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy
định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước
quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;
b) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch
sử - văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà
nước; người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định
của pháp luật.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Điều 230 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định xác lập quyền sở hữu đối với
tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách
nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu
thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam và
thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Phân tích
để ông Bình hiểu rõ việc bà Ánh đã liên hệ với cán bộ xã thông báo cho người bị
mất biết và đến nhận là việc làm phù hợp theo quy định của Bộ luật dân sự năm
2015. Đề nghị ông Bình chấp nhận về việc bồi thường chiếc máy đã chập điện
và hỏng do bà Ánh nhặt được mặc dù bà đã giao máy tính cho con trai là Minh
sử dụng là không đúng và bà Ánh đã xin phép ông Bình thứ lỗi, việc máy tính bị
hỏng là do Minh là con ông vô tình làm đổ chai nước dẫn đến chập điện và máy
tính bị hỏng chứ không phải do ông cố ý thực hiện.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 23. Truyện con trâu đi lạc

Khi phát hiện có con trâu lạc vào đàn trâu của nhà, ông An đã báo cho cán
bộ xã biết để thông báo trên loa truyền thanh của xã, rồi đưa trâu về nhà nuôi.
Hai tháng sau, ông Bách là chủ của con trâu bị thất lạc đã đến gặp ông An để xin
lại con trâu. Ông An đồng ý trả lại trâu và đề nghị ông Bách phải thanh toán tiền
công và các chi phí nuôi giữ con trâu trong hai tháng. Ông Bách không nhất trí
thanh toán tiền công và trả chi phí nuôi giữ trâu nên hai bên phát sinh mâu

28

thuẫn. Nếu được phân công hòa giải vụ việc trên, ông/bà sẽ hòa giải như thế
nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa ông An và ông
Bách là việc thanh toán tiền công và các chi phí nuôi giữ con trâu của nhà ông
Bách bị thất lạc do ông An nuôi giữ.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 231 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc: “1.
Người bắt được gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo ngay cho Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà
nhận lại. Sau 06 tháng, kể từ ngày thông báo công khai hoặc sau 01 năm đối với
gia súc thả rông theo tập quán thì quyền sở hữu đối với gia súc và số gia súc
được sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia súc.
2. Trường hợp chủ sở hữu được nhận lại gia súc bị thất lạc thì phải thanh
toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác cho người bắt được gia súc. Trong
thời gian nuôi giữ gia súc bị thất lạc, nếu gia súc có sinh con thì người bắt được
gia súc được hưởng một nửa số gia súc sinh ra hoặc 50% giá trị số gia súc sinh
ra và phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia súc.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định của Điều 231 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu
đối với gia súc bị thất lạc để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi
bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh
chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp ở địa phương, gia đình và
thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn. Đề nghị ông Bách
thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác để đảm bảo quyền lợi mà ông
An đã bỏ các chi phí nuôi giữ con trâu của ông Bách
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống số 24. Quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc
Bà Hà nuôi một đàn 40 con ngan. Một hôm bà thấy có 20 con ngan khác
lạc vào đàn ngan của mình. Bà Hà đi hỏi các gia đình gần đó và báo với cán bộ
xã để thông báo trên loa truyền thanh xã nhưng mãi không có ai đến nhận nên bà
đành phải nuôi đàn vịt ngan đó. Mười ngày sau, ông Chiến thôn bên cạnh đến
xin nhận lại 20 con ngan bị thất lạc. Sau khi nêu điểm đặc trưng của ngan nhà
ông Chiến, thấy đúng, bà Hà đồng ý trả lại ngan. Sau khi nhận ngan, ông Chiến
yêu cầu bà Tú trả lại số trứng mà 20 con ngan của ông đã đẻ trong 15 ngày. Bà

29

Tú không đồng ý vì mặc dù ngan có đẻ nhưng bà phải mất công nuôi và cho ăn
nên bù trừ đi là vừa đủ, ông nhận ngan về, bà nhận trứng nhưng ông Chiến
không đồng ý dẫn đến cãi vã, mâu thuẫn. Nếu được giao hòa giải vụ việc,
ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa bà Hà và ông
Chiến là việc thanh toán tiền công và các chi phí do nuôi giữ 20 con ngan bị thất
lạc của nhà ông Chiến do bà Hà bắt được.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 232 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc: “1.
Trường hợp gia cầm của một người bị thất lạc mà người khác bắt được thì
người bắt được phải thông báo công khai để chủ sở hữu gia cầm biết mà nhận
lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận
thì quyền sở hữu đối với gia cầm và hoa lợi do gia cầm sinh ra trong thời gian
nuôi giữ thuộc về người bắt được gia cầm.
2. Trường hợp chủ sở hữu được nhận lại gia cầm bị thất lạc thì phải
thanh toán tiền công nuôi giữ và chi phí khác cho người bắt được gia cầm.
Trong thời gian nuôi giữ gia cầm bị thất lạc, người bắt được gia cầm được
hưởng hoa lợi do gia cầm sinh ra và phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý
làm chết gia cầm.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định của Điều 232 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu
đối với gia cầm bị thất lạc để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi
bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh
chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm và
thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn. Đề nghị ông Chiến
đồng ý với đề nghị của bà Hà trả ngan và thanh toán tiền công nuôi giữ và các
chi phí bằng số trứng mà 20 con ngan của ông đã đẻ trong 15 ngày để đảm bảo
quyền lợi mà bà Hà đã bỏ các chi phí nuôi giữ 20 con ngan đẻ của ông Chiến.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 25. Hai cái ao và trận mưa rào

Nhà ông Minh và ông Huân có ao sát nhau để nuôi trồng thủy sản. Ao nhà
ông Minh chuyên nuôi tôm, ao nhà ông Huân chuyên nuôi cá, mọi người trong
làng đều biết việc này, tuy nhiên, sau trận mưa rào, nước lụt, tôm từ ao nhà ông
Minh nhảy tràn sang ao nhà ông Huân. Thấy ao nhà mình tự dưng rất nhiều tôm,

30

ông Huân đã cất vó, bắt tôm đem bán, ông Minh biết chuyện đã yêu cầu ông
Huân trả lại số tôm đã bắt. Ông Huân không đồng ý vì “cá vào ao ai người đó
hưởng”, “tôm ở ao ông thì ông bắt” dẫn đến mâu thuẫn, xung đột. Nếu được
phân công hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa Nhà ông Minh và
ông Huân là mâu thuẫn tôm từ ao nhà ông Minh nhảy tràn sang ao nhà ông Huân
do bị mưa rào, nước lụt
2. Căn cứ pháp lý
Điều 233 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước: “Khi
vật nuôi dưới nước của một người di chuyển tự nhiên vào ruộng, ao, hồ của
người khác thì thuộc sở hữu của người có ruộng, ao, hồ đó. Trường hợp vật
nuôi dưới nước có dấu hiệu riêng biệt để có thể xác định vật nuôi không thuộc
sở hữu của mình thì người có ruộng, ao, hồ đó phải thông báo công khai để chủ
sở hữu biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà
không có người đến nhận thì quyền sở hữu vật nuôi dưới nước đó thuộc về
người có ruộng, ao, hồ.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định của Điều 233 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu
đối với vật nuôi dưới nước để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi
bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh
chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm và
thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Đề nghị
ông Huân phải trả lại số tôm đã bắt do số tôm từ ao của nhà ông Minh nhảy tràn
sang ao nhà ông Huân với số tôm đã đem bán cần phải bồi thường.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 26. Mâu thuẫn trong việc thoát nước mưa
Nhà bà Vy và ông Thưởng là hai hộ liền kề. Khi sửa nhà, bà Vy làm thêm
mái tôn che mưa nhưng lại không làm đường ống thoát nước. Mỗi khi trời mưa,
nước từ mái tôn nhà bà Vy chảy tràn sang mái nhà ông Thưởng gây thấm nước
xuống các phòng bên dưới. Ông Thưởng nhiều lần yêu cầu bà Vy phải làm
đường ống thoát nước nhưng bà Vy không đồng ý vì cho rằng nhà ông Thưởng
bị thấm là do xử lý chống thấm trần nhà không tốt chứ không phải là do việc bà
Vy sửa nhà, vì vậy, hai bên đã xảy ra mâu thuẫn, xung đột. Nếu được giao hòa
giải vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?

31

Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa hộ nhà bà Vy và
hộ nhà ông Thưởng là mâu thuẫn trong việc thoát nước mưa do khi sửa nhà, bà
Vy làm thêm mái tôn che mưa nhưng lại không làm đường ống thoát nước. Mỗi
khi trời mưa, nước từ mái tôn nhà bà Vy chảy tràn sang mái nhà ông Thưởng
gây thấm nước xuống các phòng bên dưới.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 250 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể ngày
01/01/2017 quy định nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc thoát nước mưa: “Chủ
sở hữu nhà, công trình xây dựng khác phải lắp đặt đường dẫn nước sao cho
nước mưa từ mái nhà, công trình xây dựng của mình không được chảy xuống
bất động sản của chủ sở hữu bất động sản liền kề.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Điều 250 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nghĩa vụ của chủ sở hữu trong
việc thoát nước mưa để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên
trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và
tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm và
thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Đề nghị
nhà bà Vy phải thực hiện lắp đặt đường dẫn nước sao cho nước mưa từ mái nhà
không được chảy xuống mái nhà ông Thưởng
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.
Tình huống 27. Nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc thoát nước thải
Hộ gia đình bà My nuôi rất nhiều lợn nhưng hệ thống tiêu thoát nước, khí
thải không đảm bảo, nước và khí thải được thải thẳng trực tiếp vào đường thoát
nước của xóm làm ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường và những hộ xung quanh.
Dù đã được nhắc nhở nhiều lần nhưng hộ bà My vẫn không khắc phục, thậm chí
tình trạng ô nhiễm ngày càng nặng hơn, gây bức xúc, ảnh hưởng đến đời sống
của cộng đồng, nhất là vào những hôm trời nắng nóng hoặc mưa to, nước tràn
lên đường. Nếu được giao hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào ?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn do gia đình bà Mỵ
nuôi rất nhiều lợn nhưng hệ thống tiêu thoát nước, khí thải không đảm bảo, nước
và khí thải được thải thẳng trực tiếp vào đường thoát nước của xóm làm ảnh
hưởng đến vệ sinh môi trường và những hộ xung quanh.
2. Căn cứ pháp lý

32

Điều 251 Bộ luật dân sự năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc thoát nước thải: “Chủ
sở hữu nhà, công trình xây dựng khác phải làm cống ngầm hoặc rãnh thoát
nước để đưa nước thải ra nơi quy định, sao cho nước thải không chảy tràn sang
bất động sản của chủ sở hữu bất động sản liền kề, ra đường công cộng hoặc nơi
sinh hoạt công cộng.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Điều 251 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nghĩa vụ của chủ sở hữu trong
việc thoát nước thải.
- Hòa giải viên cần thuyết phục đề nghị gia đình bà My phải có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ trong việc thoát nước thải, khí thải để không làm ảnh
hưởng đến vệ sinh môi trường và những hộ xung quanh.
- Trong trường hợp gia đình bà My không thực hiện, đề nghị cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 28. Mẫu thuẫn về lối đi qua

Thửa đất nhà ông Minh bên trong thửa đất nhà bà Lan. Để thoát nước thải,
hộ ông Minh phải bắc ống dẫn nước qua thửa đất nhà bà Lan. Nhưng bà Lan
không đồng ý và yêu cầu ông Minh bắc ống dẫn nước sang hướng khác, không
đi qua đất nhà bà. Ông Minh cho rằng đường ống dẫn nước thải hiện nay là tiện
nhất, nếu bà Lan không cho đi qua đất nhà bà thì ông không biết cho nước thải
đi đâu. Ông Minh đề nghị bà Lan cho phép ông đặt đường ống dẫn nước qua đất
nhà bà và để không ảnh hưởng, ông sẽ tiến hành bắc đường ống dẫn nước sang
sát mép tường xây một cách cẩn thận, không để ống dẫn nước hư hỏng làm ảnh
hưởng nhưng bà Lan không đồng ý. Hai bên lời qua tiếng lại, ai cũng giữ quan
điểm của mình, sau đó, ông Minh đã liên hệ với Tổ hòa giải của xóm đề nghị
can thiệp, giúp đỡ. Được giao hòa giải vụ việc này, ông/bà sẽ hòa giải như thế
nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuấn giữa ông Minh và bà
Lan là do đường ống dẫn nước thải của nhà ông Minh qua đất nhà bà Lan là tiện
nhất và duy nhất vì không biết cho nước thải đi đâu nhưng bà Lan không cho đi
qua đất nhà bà và yêu cầu phải chuyển sang hướng khác.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 252 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề:
“Trường hợp do vị trí tự nhiên của bất động sản mà việc cấp, thoát nước buộc
phải qua một bất động sản khác thì chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua
phải dành một lối cấp, thoát nước thích hợp, không được cản trở hoặc ngăn
chặn dòng nước chảy.

33

Người sử dụng lối cấp, thoát nước phải hạn chế đến mức thấp nhất thiệt
hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua khi lắp đặt đường dẫn nước;
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trường hợp nước tự nhiên chảy từ vị trí cao
xuống vị trí thấp mà gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua
thì người sử dụng lối cấp, thoát nước không phải bồi thường thiệt hại.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Điều 252 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định quyền về cấp, thoát nước qua
bất động sản liền kề để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên
trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và
tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm và
thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Đề nghị
bà Lan tiếp tục cho phép ông Minh đặt đường ống dẫn nước qua đất nhà bà và
tiến hành di chuyển đường ống sang sát mép tường xây của nhà bà Lan, không
để ống dẫn nước hư hỏng làm ảnh hưởng nhà bà Lan vì đường thoát nước của
nhà ông Minh qua đất nhà bà Lan là tiện nhất và nếu không cho đi qua đất nhà
bà Lan thì ông Minh không biết cho nước thải đi đâu.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 29. Mốc giới năm xưa

Mốc giới phân chia thửa đất nhà ông A và bà B ở hai đầu là hai cọc đá
được chôn từ 20 năm nay. Năm 2006, khi xây chuồng lợn, ông A đã để lại 50cm
đất cách mốc giới và dự định sau này sẽ làm đường ống thoát nước chạy dọc theo.
Nay bà B cho san nền xây bếp sát với chuồng lợn nhà ông A, chỉ cách 30 cm.
Ông A yêu cầu bà B dừng xây dựng để kiểm tra mốc giới. Qua kiểm tra, thấy bà
B xây dựng lấn sang phần đất nhà Ông 20 cm nên hai bên xảy ra tranh chấp, mâu
thuẫn. Nếu được giao hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa ông A và bà B là
mẫu thuẫn về mốc giới ngăn cách các bất động sản
2. Căn cứ pháp lý: Điều 176 Bộ luật dân sự năm 2015, có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/01/2017 quy định mốc giới ngăn cách các bất động sản như sau:
“1. Chủ sở hữu bất động sản chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây,
xây tường ngăn trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình.
2. Các chủ sở hữu bất động sản liền kề có thể thỏa thuận với nhau về việc
dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn trên ranh giới để làm mốc
giới ngăn cách giữa các bất động sản; những vật mốc giới này là sở hữu chung
của các chủ thể đó.

34

Trường hợp mốc giới ngăn cách chỉ do một bên tạo nên trên ranh giới và
được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý thì mốc giới ngăn cách đó là sở
hữu chung, chi phí để xây dựng do bên tạo nên chịu, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác; nếu chủ sở hữu bất động sản liền kề không đồng ý mà có lý do
chính đáng thì chủ sở hữu đã dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường
ngăn phải dỡ bỏ.
3. Đối với mốc giới là tường nhà chung, chủ sở hữu bất động sản liền kề
không được trổ cửa sổ, lỗ thông khí hoặc đục tường để đặt kết cấu xây dựng, trừ
trường hợp được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý.
Trường hợp nhà xây riêng biệt nhưng tường sát liền nhau thì chủ sở hữu
cũng chỉ được đục tường, đặt kết cấu xây dựng đến giới hạn ngăn cách tường
của mình.
Đối với cây là mốc giới chung, các bên đều có nghĩa vụ bảo vệ; hoa lợi
thu được từ cây được chia đều, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Điều 176 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định Mốc giới ngăn cách các bất
động sản. Hòa giải viên cần phân tích để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách
nhiệm của mỗi bên trong vụ việc để các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu
thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm,
thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn. Đề nghị bà B dừng
ngay việc xây dựng để các bên tiến hành hòa giải. Hai bên cần có nghĩa vụ tôn
trọng  mốc giới phân chia thửa đất nhà ông A và bà B là ở hai đầu hai cọc đá
được chôn từ 20 năm nay.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 30. Chỉ tại hai cây nhãn

Nhà ông Minh liền kề với nhà ông Chiến. Gần phần đất giáp ranh giữa
hai nhà, ông Minh trồng 02 cây nhãn. Một cây có nhiều lá rụng, đọng lại trên
mái nhà và nhiều cành ngả sang đất nhà ông Chiến làm hư hỏng mái ngói. Một
cây bị nghiêng, gần bật gốc, có nguy cơ đổ vào nhà ông Chiến. Nhiều lần, ông
Chiến đề nghị ông Minh chặt các cành vươn sang đất nhà mình và đốn cây nhãn
bị nghiêng để tránh cây đổ nhưng ông Minh không đồng ý. Hai bên nhiều lần to
tiếng gây căng thẳng, làm mất trật tự khối xóm. Hàng xóm đã nhiều lần khuyên
can nhưng không được, xung đột, mâu thuẫn có nguy cơ gia tăng cao. Nếu được
phân công hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:

35

1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn là do cây nhãn nhà
ông Minh có nguy cơ bật gốc đe dọa đổ vào nhà ông Chiến.
2. Căn cứ pháp lý
- Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017 tại
Khoản 2 Điều 175 quy định về ranh giới giữa các bất động sản: “2. Người sử
dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh
giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm ảnh
hưởng đến việc sử dụng đất của người khác.
Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn
viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu
rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, cắt, tỉa cành phần vượt quá,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
- Khoản 1 Điều 177 Bộ luật dân sự 2015 quy định về Bảo đảm an toàn
trong trường hợp cây cối, công trình có nguy cơ gây thiệt hại: “1. Trường hợp cây
cối, công trình xây dựng có nguy cơ sập đổ xuống bất động sản liền kề và xung
quanh thì chủ sở hữu tài sản thực hiện ngay các biện pháp khắc phục, chặt cây,
sửa chữa hoặc dỡ bỏ công trình xây dựng đó theo yêu cầu của chủ sở hữu bất
động sản liền kề và xung quanh hoặc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền; nếu không tự nguyện thực hiện thì chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung
quanh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho chặt cây, phá dỡ.
Chi phí chặt cây, phá dỡ do chủ sở hữu cây cối, công trình xây dựng chịu.”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định của Bộ luật dân sự năm 2015 tại Khoản 2 Điều 175 quy định về ranh giới
giữa các bất động sản và Khoản 1 Điều 177 quy định về bảo đảm an toàn trong
trường hợp cây cối, công trình có nguy cơ gây thiệt hại để phân tích để các bên
hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mình trong vụ việc để các bên thỏa thuận
việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm,
thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, không nên to tiếng
làm mất trật tự khối xóm. Đề nghị ông Minh chặt các cành cây vươn sang đất
nhà ông Chiến và đề nghị chặt ngay cây Nhãn có nguy cơ bật gốc để tránh cây
đổ sang nhà ông Chiến. Trường hợp ông Minh không đồng ý, ông Chiến có
quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho chặt cây, phá dỡ. Ông Minh
phải chịu chi phí chặt cây.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 31. Cái cửa sổ nhà hàng xóm

Nhà bà A có khu đất liền kề nhà bà H. Trước khi xây dựng nhà, bà A đã
thuê công ty đến đo đạc, thiết kế và hoàn tất các thủ tục xin phép xây dựng. Do

36

diện tích hạn chế nên bà A xây hết phần diện tích thuộc quyền sử dụng. Khi xây
đến tầng 2, nhà bà H phản đối với lý do cửa sổ nhà bà A mở nhìn sang phần đất
nhà bà, Khi mở cửa sổ sẽ lấn sang phần ngõ đi riêng của nhà bà H. Bà A cho
rằng hồ sơ xây dựng nhà đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, phù hợp với
quy định của pháp luật, nên lý lẽ bà H đưa ra không thuyết phục. Hai bên xảy ra
mâu thuẫn, tranh chấp. Nếu được phân công hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải
như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa bà A và bà H là
nhà bà A khi mở cửa sổ sẽ lấn sang phần ngõ đi riêng của gia đình nhà bà H.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 178 Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2017 quy định
về trổ cửa nhìn sang bất động sản liền kề: “1. Chủ sở hữu nhà chỉ được trổ cửa
ra vào, cửa sổ quay sang nhà bên cạnh, nhà đối diện và đường đi chung theo
quy định của pháp luật về xây dựng.
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định của Bộ luật dân sự năm 2015 tại Điều 178 quy định về trổ cửa nhìn sang
bất động sản liền kề để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên
trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và
tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm, thuyết
phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn. Đề nghị bà H thực hiện việc
trổ cửa sổ nhìn sang nhà bà H phải theo quy định của pháp luật về xây dựng.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 32. Chuyện láng giềng

Gia đình anh Hà và anh Nam là hàng xóm liền kề, sống với nhau rất hòa
thuận, vui vẻ. Khi anh Hà phá nhà cũ để xây ngôi nhà mới 4 tầng thì tường nhà
của anh Nam bị nứt dài (phần liền kề với nhà của anh Hà), phải cải tạo lại thì
mới bảo đảm an toàn. Theo anh Nam, nguyên nhân tường bị nứt là do nhà anh
Hà đã xây sát nhà mình, trong quá trình xây anh Hà đã không áp dụng biện pháp
chằng chống, đào móng nhà còn sâu hơn móng nhà anh. Anh Hà thì cho rằng
nguyên nhân tường nhà anh Nam nứt không phải là do anh xây nhà tường đè vào
mà do trước đây gia đình anh Nam làm móng không chắc lâu ngày thì tường nứt
là chuyện bình thường. Hai bên lời qua tiếng lại, không ai chịu ai, tình cảm giữa
hai gia đình có dấu hiệu rạn nứt và ngày càng nghiêm trọng. Anh Nam đã đề
nghị tổ hòa giải khu phố hòa giải giúp vụ việc, bảo đảm hợp tình, hợp lý.
Trường hợp này nên hòa giải như thế nào?

37

Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Khi anh Hà phá nhà cũ để xây ngôi
nhà mới thì nhà của anh Nam bị nứt dài bên tường (phần liền kề với ngôi nhà của
anh Hà), phải cải tạo lại thì mới bảo đảm an toàn. Theo anh Nam, nguyên nhân
tường bị nứt là do nhà anh Hà đã xây sát nhà mình, trong quá trình xây anh Hà đã
không áp dụng biện pháp chằng chống, đào móng nhà còn sâu hơn móng nhà mình.
Anh Hà thì cho rằng nguyên nhân tường nhà anh Nam nứt không phải là do anh
xây nhà tường đè vào mà do trước đây gia đình anh Nam làm móng không chắc.
2. Căn cứ pháp lý
- Điều 174 Bộ luật dân sự năm 2015 về nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây
dựng quy định: “Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác
đối với tài sản phải tuân theo pháp luật về xây dựng, bảo đảm an toàn, không
được xây vượt quá độ cao, khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và
không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người có
quyền khác đối với tài sản là bất động sản liền kề và xung quanh”.
- Khoản 2,3 Điều 177 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Khi đào giếng,
đào ao hoặc xây dựng công trình dưới mặt đất, chủ sở hữu công trình phải đào,
xây cách mốc giới một khoảng cách do pháp luật về xây dựng quy định…
Trường hợp gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung
quanh thì chủ sở hữu cây cối, công trình phải bồi thường.”.
- Điều 605, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Chủ sở hữu, người
chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng
khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây
thiệt hại cho người khác…”
3. Hướng giải quyết
- Trên cơ sở quy định Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu trên, hòa giải viên phân
tích để anh Hà hiểu việc anh xây nhà sát nhà anh Nam không tuân thủ xây cách
mốc giới một khoảng cách do pháp luật về xây dựng quy định là sai và anh phải có
nghĩa vụ bồi thường cho gia đình anh Nam khi việc xây dựng nhà của anh Hà có
nguy cơ đe dọa sự an toàn cho căn nhà anh Nam.
- Thuyết phục anh Nam và anh Hà vì tình cảm hàng xóm, sống với nhau rất
hòa thuận vui vẻ nên thỏa thuận với nhau về việc bồi thường để đảm bảo cho công
trình nhà anh Hà sử dụng an toàn. Thuyết phục anh Nam phải tuân thủ quy tắc về
xây dựng, bảo đảm cho công trình liền kề và an toàn tính mạng của hàng xóm.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các
bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tình huống 33. Món nợ và tình làng nghĩa xóm

Ông A và bà B là hành xóm của nhau, để hỗ trợ con trai xây nhà bà B đã
vay ông A 200 triệu, thời hạn vay là 06 tháng (có giấy viết tay của bà B), con
trai của bà B cũng biết mẹ mình vay 200 triệu của ông A là để hỗ trợ cho mình

38

xây nhà. Năm tháng sau, bà B đột ngột qua đời trong một tai nạn giao thông; đến
thời hạn trả nợ, ông A đã yêu cầu con trai bà B trả ông 200 triệu nhưng con trai
bà B không trả và nói việc vay tiền là do mẹ anh vay chứ anh không vay, vì mẹ
anh đã mất nên anh không có nghĩa vụ phải trả nợ thay. Sau nhiều lần đòi không
được, ông A đã tìm đến Tổ hòa giải đề nghị giúp đỡ. Nếu được giao hòa giải vụ
việc trên, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: ông A đã cho bà B vay 200 triệu
để bà B lấy tiền hỗ trợ con trai xây dựng nhà mới. Thời hạn vay là 06 tháng (có
giấy viết tay của bà B), con trai của bà B cũng biết mẹ mình vay tiền của ông A
là để hỗ trợ cho mình xây nhà. Năm tháng sau, bà B đột ngột qua đời trong một
tai nạn giao thông; đến thời hạn trả nợ, ông A đã yêu cầu con trai bà B trả ông
200 triệu nhưng con trai bà B không trả và nói việc vay tiền là do mẹ anh vay
chứ anh không vay.
2. Căn cứ pháp lý
- Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến
hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số
lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định”
- Khoản 1, Khoản 2 Điều 466 về nghĩa vụ trả nợ của bên vay quy định:
“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì
phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.
2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị
giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng
ý”
- Khoản 1, Điều 615 Bộ luật quy định: “ Những người hưởng thừa kế có
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để
lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
3. Hướng dẫn giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu trên, hòa giải viên phân tích để con trai bà B
hiểu việc mẹ anh vay vàng của ông A đến hạn trả nhưng mẹ anh đột ngột qua đời,
là con trai anh đương nhiên được hưởng thừa kế do mẹ anh để lại. Vì vậy anh phải
có nghĩa vụ trả nợ số vàng mẹ anh vay.
- Thuyết phục con trai bà B vì là hàng xóm láng giềng thân thiết của nhau,
hơn nữa mẹ anh lại vay để hỗ trợ anh xây dựng nhà mới, anh nên nghĩ đến mẹ
mình mà trả nợ cho ông A. Thuyết phục ông A, nếu con trai bà B chưa có điều kiện
trả có thể kéo dài thêm thời gian trả nợ.

39

- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 34. Anh em hòa thuận

Ông bà H sinh được 3 người con (người con trai cả và 02 người con gái).
Cả ba người đều đã xây dựng gia đình và ra ở riêng. Khi mất, ông bà K có để lại
di chúc chung, chia đều toàn bộ di sản gồm ngôi nhà và diện tích đất đang ở cho 3
người con. Sau khi cả bố và mẹ mất, do ở xa và muốn có chỗ để thờ tự và cũng là
nơi để cả ba anh em gặp nhau vào những ngày lễ, tết nên người con gái thứ 2 và
con gái út thoả thuận giao toàn bộ phần di sản thuộc quyền thừa kế của mình cho
người anh cả quản lý. Do mải cờ bạc, lô đề, người anh cả muốn bán toàn bộ nhà
đất đó nhưng cả hai em gái đều không đồng ý và tuyên bố nếu anh bán thì cả hai
người sẽ đòi lại phần của họ đã giao cho người anh quản lý, bất đồng trong gia
đình ngày càng lớn, hai người em gái đã tìm đến tổ hoà giải đề nghị giúp đỡ. Nếu
được giao hòa giải vụ việc này, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Khi mất, ông bà K có để lại di chúc
chung, chia đều toàn bộ di sản cho 3 người con. Sau khi cả bố và mẹ mất, do ở xa
và muốn có chỗ để thờ tự và cũng là nơi để cả ba anh em gặp nhau vào những
ngày lễ, tết, người con gái thứ 2 và con gái út thoả thuận giao toàn bộ phần di sản
thuộc quyền thừa kế của mình cho người anh cả quản lý. Do mải cờ bạc, lô đề,
người anh cả muốn bán toàn bộ nhà đất đó nhưng cả hai em gái đều không đồng ý
và tuyên bố nếu chị bán thì cả hai người sẽ đòi lại phần của họ đã giao cho người
anh quản lý.
2. Căn cứ pháp lý
- Điều 616, Bộ luật dân sự 2015 về người quản lý di sản quy định: “Người
quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa
kế thỏa thuận cử ra”.
- Điểm b, Điều 617 nghĩa vụ của người quản lý di sản quy định: “Bảo
quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt
tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng
văn bản”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Bộ luật Dân sự năm 2015 về người quản lý di sản nêu trên, hòa giải viên phân
tích để người anh cả hiểu khi được giao quản lý di sản không được bán.
- Thuyết phục người anh cả vì tình cảm anh em, khi 2 người em đã tin tưởng
giao toàn bộ phần di sản thuộc quyền thừa kế của mình cho anh cả quản lý thì anh
phải quản lý di sản cho tốt . Trường hợp người anh cả muốn bán có thể thỏa thuận
với các em cho mình bán đất được hưởng thừa kế của mình theo di chúc.

40

- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 35. Thừa kế

Vợ chồng ông Tú và bà Lan có một người con trai là Hà. Ông Tú còn có
một người con riêng là Mạnh. Anh Mạnh đã được ông Tú hoàn tất các thủ tục
nhận cha, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Sau khi ông Tú mất
(không để lại di chúc), anh Mạnh yêu cầu được chia thừa kế đối với phần di sản
của ông Tú để lại (bao gồm nhà và đất mà trước đây ông Tú và bà Lan cùng
chung sức tạo dựng). Bà Lan và anh Hà không đồng ý, vì cho rằng, ông Tú
không có tài sản nào để lại cả, tất cả nhà, đất và tài sản đều thuộc quyền sở hữu
của mẹ con anh Hà; anh Mạnh là con riêng của ông Tú nên không có quyền
hưởng thừa kế. Anh Mạnh đã tìm đến Tổ Hòa giải đề nghị giúp đỡ. Nếu được
giao hòa giải vụ việc này, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
Ông Tú mất (không để lại di chúc), anh Mạnh (con riêng của ông) yêu cầu
được chia thừa kế đối với phần di sản của ông Tú để lại nhưng vợ và con trai của
ông Nông ( Bà Lan và anh Hà ) không đồng ý.
2. Căn cứ pháp lý
Điểm a, Khoản 1; Khoản 2 Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết… Những người thừa kế cùng hàng được hưởng
phần di sản bằng nhau”.
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu trên, hòa giải viên phân tích để bà Lan và anh
Hà hiểu dù không muốn nhưng anh Mạnh vẫn là con ruột của ông Tú, vì vậy anh
Mạnh vẫn được hưởng phần di sản của ông Tú để lại. Khi ông Tú mất, tài sản của
ông và bà Lan được chia làm 2 phần, phần di sản của ông để lại sẽ được chia đều
cho 3 người (bà Lan, anh Hà, anh Mạnh).
- Thuyết phục anh Mạnh nên thỏa thuận với bà Lan và anh Hà về di sản do
ông Tú để lại theo hướng các bên cùng có lợi.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 36. Vì hạnh phúc của con

Anh Hoàng (27 tuổi) và chị Vân (26 tuổi) đều có nghề nghiệp ổn định và
có đủ điều kiện kết hôn. Sau thời gian dài tìm hiểu anh, chị đã quyết định việc
kết hôn. Song do trước đây, mẹ anh Hoàng có mâu thuẫn với gia đình chị Vân

41

nên khi anh chị về xin phép gia đình tổ chức lễ cưới, mẹ anh Hoàng không đồng
ý. Tuy vậy, họ vẫn quyết định kết hôn và cùng đến Ủy ban nhân dân xã để hoàn
tất thủ tục xin đăng ký kết hôn. Biết chuyện, mẹ anh Hoàng đã đến yêu cầu Uỷ
ban nhân dân xã không cho anh Hoàng và chị Vân đăng ký kết hôn. Bà còn gặp
chị Vân mắng chửi và dọa sẽ từ mặt con nếu anh Hoàng và chị Vân vẫn cố tình
đăng ký kết hôn. Để giải tỏa mâu thuẫn, Anh Hoàng đã xin tạm hoãn ngày đăng
ký kết hôn lại và đến nhờ Tổ hòa giải giúp đỡ thuyết phục mẹ mình. Nếu được
giao hòa giải vụ việc này, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: mẹ anh Hoàng không đồng ý đề
anh Hoàng kết hôn với chị Vân vì trước đây mẹ anh Hoàng có mẫu thuẫn với gia
đình chị Vân.
2. Căn cứ pháp lý
Điểm b, Khoản 2; Khoản 3 Điều 5 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy
định cấm những hành vi như sau: “ Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn,
cản trở kết hôn… Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải
được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền
yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn
chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình”.
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nêu trên, hòa giải viên cần phân tích để
mẹ anh Hoàng hiểu việc bà gặp chị Vân mắng chửi và dọa sẽ từ mặt con nếu anh
Hoàng và chị Vân vẫn cố tình đăng ký kết hôn là sai với quy định của pháp luật.
- Bên cạnh đó, Hòa giải viên cần thuyết phục mẹ anh Hoàng để mẹ anh
hiểu việc anh Hoàng muốn lấy chị Vân là dựa trên cơ sở tình cảm, tìm hiểu một
thời gian dài, hôn nhân được xây dựng trên nền tảng của tình yêu thì mới có
hạnh phúc dài lâu. Bà càng cấm cản thì càng làm khổ con trai mà thôi, để từ đó
vì yêu thương con trai, quan tâm đến tương lai của con trai và tình cảm gia đình
sau này bà không phản đối việc kết hôn của anh chị nữa.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 37: Thuận vợ thuận chồng

Anh Toàn và chị Hương kết hôn đã được 15 năm, sinh được 2 cháu, một
trai, một gái và đang tuổi đi học. Cuộc sống của gia đình anh chị rất khó khăn,
hàng ngày chị tần tảo bán rau kiếm sống, anh thì làm nghề chạy xe ôm. Gần đây,
anh Toàn bỏ bê công việc, thường xuyên đánh số đề, lại nghiện rượu. Do cuộc
sống khó khăn, lại không có tiền, anh Toàn thường to tiếng, chửi bới, xúc phạm,
thậm chí “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” với vợ. Chị Hương do cuộc sống vất
vả, làm việc mệt mỏi nên đôi khi cũng nặng lời, xỉa xói chồng. Gần đây hai vợ

42

chồng anh chị thường xuyên cãi vã, to tiếng với nhau, gây mất trật tự thôn xóm.
Nếu được phân công hòa giải vụ việc này, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Do kiếm sống khó khăn, lại không
có nhiều tiền, anh Toàn thường to tiếng, chửi bới, xúc phạm, thậm chí “thượng
cẳng chân, hạ cẳng tay” với vợ. Chị Hương do cuộc sống vất vả, làm việc mệt
mỏi nên đôi khi cũng nặng lời, xỉa xói chồng, gần đây hai vợ chồng anh chị
thường xuyên cãi vã, to tiếng với nhau, gây mất trật tự thôn xóm.
2. Căn cứ pháp lý
- Khoản 1 Điều 19 Luật hôn nhân gia đình quy định : “ Vợ chồng có
nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;
cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.
- Khoản 1 Điều 8 Luật phòng chống bạo lực gia đình nghiêm cấm: “ Các
hành vi bạo lực gia đình sau: Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý
khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc
phạm danh dự, nhân phẩm…”.
- Khoản 1, Điều 49 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm
2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn
xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng cháy chữa cháy, phòng chống bạo lực
gia đình quy định: “ Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với
hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình”.
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở các
quy định Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Luật phòng chống bạo lực gia đình
năm 2007, Nghị định 167/2013/NĐ-CP nêu trên, hòa giải viên cần phân tích để
anh Toàn hiểu việc anh bỏ bê công việc, thường to tiếng, chửi bới, xúc phạm,
đánh chị Hương vợ anh là vi phạm quy định của pháp luật.
- Thuyết phục 2 bên vì tình cảm vợ chồng đã sống với nhau lâu năm
không nên cãi vã to tiếng và không để xảy ra xung đột. Cần thuyết phục để anh
Toàn và chị Hương hiểu được vợ chồng phải yêu thương, tôn trọng lẫn nhau.
Chỉ có vợ chồng đồng sức, đồng lòng thì gia đình mới yên ấm hạnh phúc, kinh
tế gia đình mới phát triển. Thay vì xỉa xói, chửi bới nhau hai vợ chồng nên dành
thời gian đó để bàn bạc cách làm ăn phát triển kinh tế gia đình.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn
các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.

Tình huống 38. Tài sản của ai?

Sau khi kết hôn, cho rằng mình là người làm ra tiền, vợ thì lương thấp nên
anh Vinh không cho phép chị Mai (là vợ) tham gia ý kiến khi mua sắm, định
đoạt tài sản của gia đình, kể cả việc mua sắm những vật dụng nhỏ. Nhiều lần chị

43

Mai góp ý anh nên bàn bạc để thống nhất giữa vợ và chồng nhưng anh Vinh
không nghe. Nhiều lúc chán, chị Mai sinh căng thẳng, bức xúc, vợ chồng to
tiếng. Gần đây vợ chồng anh Vinh và chị Mai thường xuyên xung đột, cãi vã,
cuộc sống gia đình rất căng thẳng làm ảnh hưởng đến trật tự khu dân cư. Nếu
được phân công hòa giải vụ việc, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Anh Vinh nghĩ rằng mình là
người làm ra tiền nên không cho phép vợ tham gia ý kiến vào bất kỳ vấn đề gì
liên quan đến việc định đoạt tài sản của vợ chồng anh chị, chị Mai không đồng ý,
sau nhiều lần tranh cãi vẫn không giải quyết được nên mâu thuẫn giữa anh chị
ngày càng nghiêm trọng.
2. Căn cứ pháp lý
Khoản 2, Điều 18 Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định: “... 2. Vợ,
chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng
trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực
trong gia đình…”
3. Hướng giải quyết
- Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy
định Khoản 2, Điều 18 Luật Bình đẳng giới năm 2006, hòa giải viên cần phân
tích để anh Vinh hiểu, vợ anh mặc dù thu nhập thấp nhưng cũng được bình đẳng
trong việc sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng, việc anh không cho
phép chị Mai tham gia ý kiến khi mua sắm là vi phạm quy định của pháp luật.
- Thuyết phục anh Vinh vì tình cảm vợ chồng không nên cãi vã to tiếng
và không để xảy ra xung đột; nên tôn trọng và hỏi ý kiến vợ khi mua sắm, định
đoạt tài sản của gia đình. Từ xưa các cụ nhà ta đã dạy rằng “Của chồng công vợ”
anh nên xem xét lại hành vi của mình và biết yêu thương, chia sẻ với vợ hơn.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các
bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tình huống 39. Mất trụ ranh giới đất

Thửa đất của bà B và thửa đất của ông A nằm liền kề với nhau, giáp quốc
lộ 1A. hai thửa đất này đã được UBND cấp huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hai bên đã cắm
trụ phân ranh. Tuy nhiên, do sử dụng đất lâu ngày và mở rộng Quốc lộ 1A nên khi
thi công công trình đã làm mất trụ ranh đất phía ngoài. Do không phân chia được
ranh giới đất nên hai bên phát sinh mâu thuẫn gay gắt. Ông A viết đơn gửi tổ hòa
giải nhờ giải quyết. Nếu được giao hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ làm thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
- Mâu thuẫn xảy ra giữa bà B và ông A vì không phân chia được ranh giới
đất giữa hai nhà.

44

- Nguyên nhân: do sử dụng đất lâu ngày và mở rộng Quốc lộ 1A nên khi
thi công công trình đã làm mất trụ ranh đất phía ngoài giữa nhà bà B và nhà ông
A.
2. Căn cứ pháp lý
Căn cứ theo khoản 1 Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015 về ranh giới giữa các
bất động sản, quy định:
-Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận
hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
-Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới
đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp.
-Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp
ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn
trọng, duy trì ranh giới chung.
Căn cứ khoản 2 Điều 176 Bộ luật dân sự 2015 về mốc giới ngăn cách các
bất động sản:
- Các chủ sở hữu bất động sản liền kề có thể thỏa thuận với nhau về
việc dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn trên ranh giới để làm
mốc giới ngăn cách giữa các bất động sản; những vật mốc giới này là sở hữu
chung của các chủ thể đó.
- Trường hợp mốc giới ngăn cách chỉ do một bên tạo nên trên ranh giới
và được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý thì mốc giới ngăn cách đó là sở
hữu chung, chi phí để xây dựng do bên tạo nên chịu, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác; nếu chủ sở hữu bất động sản liền kề không đồng ý mà có lý do
chính đáng thì chủ sở hữu đã dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường
ngăn phải dỡ bỏ.
Căn cứ khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013 về giải thích từ ngữ thì giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định như sau:  “ Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng
thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài
sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
3. Hướng giải quyết
- Phân tích cho ông A và bà B hiểu được các quy định của pháp luật về
mốc ranh giới, ý nghĩa của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Qua đó, căn cứ
vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  của hai gia đình đã được nhà nước xác
nhận để xác định diện tích đất và cắm cột mốc ranh giới chung giữa hai nhà.
- Khuyên giải hai ông bà nên bình tĩnh và cùng nhau giải quyết vụ việc,
không nên vì mâu thuẫn nhỏ mà làm mất hòa khí và tình đoàn kết giữa hai gia
đình.

45

- Vận dụng truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về tình làng,
nghĩa xóm "Bán anh em xa mua láng giềng gần", “tối lửa tắt đèn có nhau”,
“mình vì mọi người, mọi người vì mình”...
Tình huống 40. Dùng tiền xây nhà trên đất không thuộc quyền sở hữu
Bà C là người tàn tật một mình nuôi con là Đ. Năm 1989, theo chủ trương
chung, bà được chính quyền địa phương cấp 82m 2 đất để làm nhà ở và nộp lệ phí
theo quy định. Đến năm 1997, các anh, chị, em của bà C, người góp của, người
góp công xây dựng giúp bà C 2 gian nhà cấp 4 để hai mẹ con ở. Trong đó, ông T
là em trai bà C có cho vay 4 chỉ vàng (đến nay do cuộc sống khó khăn nên bà C
vẫn chưa trả). Năm 2005, chị Đ đi lấy chồng, bà C ở một mình. Năm 2006,
UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà C, song vì bà bị tật
nguyền, nên bà đã giao nhờ ông T đi lấy hộ và giữ hộ mình. Năm 2012, vợ
chồng chị Đ mua vật liệu về sửa chữa lại nhà cho mẹ. Khi sửa xong, bắt goong
cửa cổng, thì ông T ngăn cản, đập hỏng một bên goong cửa và không cho hoàn
thiện, vì cho rằng ông đã bỏ tiền ra xây nhà thì sẽ là người chủ sử dụng mảnh đất
trên, nên hai bên xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp.
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
Bà C và em trai T mâu thuẫn nhau vì ông T cho rằng mình bỏ tiền ra xây
nhà thì sẽ là chủ sử dụng mảnh đất đó (mặc dù đất do bà C đứng tên quyền sở
hữu).
2. Căn cứ pháp lý
Khoản 16, Điều 13 Luật Đất đai quy định : “Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp
lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác
gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
3. Hướng giải quyết
Hòa giải viên gặp gỡ để thuyết phục, vận động các bên bình tĩnh thương
lượng, hòa giải, mời hai gia đình về nhà bà C tiến hành hòa giải. Tại nhà bà C,
ba người ông T, bà C, chị Đ, hòa giải viên phân tích, việc vợ chồng chị Đ sửa
chữa lại nhà cho mẹ để bảo đảm cuộc sống tốt hơn, là em ông T phải thấy vui
mừng vì cháu đã nghĩ đến mẹ, chăm sóc hiếu thảo với mẹ. Việc ông cho bà C
vay tiền xây nhà thì bà C phải trả. Hơn nữa, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được cấp cho bà C nên bà C mới là chủ sử dụng mảnh đất.
Tổ trưởng tổ hòa giải khuyên ông T trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho bà C, là người có quyền sử dụng đất hợp pháp. Bà C sẽ có trách nhiệm
trả lại tiền cho ông T.
Tình huống 41. Tranh chấp đất đai hòa giải ở tổ hòa giải hay UBND xã?

46

Gia đình chị Hoa có tranh chấp đất đai với gia đình hàng xóm. Sau nhiều
lần hòa giải ở cơ sở không thành (có lập biên bản), chị Hoa gửi đơn khởi kiện
đến Tòa án nhân dân để giải quyết. Tuy nhiên, hồ sơ khởi kiện của chị không
được Tòa án thụ lý và yêu cầu chị phải qua thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân
xã. Chị Hoa đề nghị cho biết, việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Tổ hòa giải ở
cơ sở và tại Ủy ban nhân dân xã khác nhau như thế nào? Tại sao Tòa án không
chấp nhận biên bản hòa giải không thành của Tổ hòa giải?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
Chị Hoa và hàng xóm mâu thuẫn liên quan đến tranh chấp đất đai và đã
gửi đơn khởi kiện ra Tòa án.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 202. Hòa giải tranh chấp đất đai
Điều 203. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
3. Hướng giải quyết
Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải
quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Tranh chấp đất đai mà các
bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
có đất tranh chấp để hòa giải. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm
tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ
chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và
các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải
tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không
quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất
đai.Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không
thành thì đương sự có quyền nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban
nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền
theo quy định cụ thể tại Luật Đất Đai.
Theo các quy định trên, chị Hoa cần phân biệt rõ việc hòa giải tranh chấp
đất đai tại Tổ hòa giải ở cơ sở và hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Theo đó,
việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Tổ hòa giải ở cơ sở chỉ mang tính chất
“khuyến khích”, nghĩa là có thể thực hiện hòa giải hoặc không thực hiện hòa
giải tại Tổ hòa giải ở cơ sở. Còn hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã là một thủ
tục bắt buộc trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai, yêu cầu các bên liên
quan phải thực hiện nghiêm túc, bảo đảm trình tự, thủ tục, thời hạn. Từ sự khác
nhau như trên, việc Tòa án từ chối thụ lý đơn khởi kiện tranh chấp đất đai của
chị Hoa là có căn cứ.

Tình huống 42. Chuyện con bò đau chân

Ông A đặt mua 2 con bò cái của bà B với giá 30 triệu đồng. Hai bên thỏa
thuận ông A đặt cọc trước 5 triệu đồng, hẹn 5 ngày sau sang trả đủ số tiền còn

47

lại và dắt bò về. Đúng hẹn, ông A đem tiền đến, nhưng khi kiểm tra lại thấy con
bò bị thương ở chân, đi không vững nên ông A không đồng ý mua và yêu cầu bà
B trả lại tiền đặt cọc. Bà B giải thích do sơ xuất trong lúc chăn giữ nên con bò bị
một vết thương ở chân, bà đã mời cán bộ thú y đến chữa trị (cán bộ thú y khẳng
định hai tuần sau sẽ khỏi). Bà B đề nghị ông A trả đủ tiền dắt bò về, không đồng
ý trả lại tiền đặt cọc cho ông A. Sau đó hai bên cãi vã, to tiếng và nặng lời với
nhau. Nếu được giao hòa giải vụ việc trên, ông/bà sẽ giải quyết trường hợp này
như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
Việc con bò bị thương là rủi ro nằm ngoài ý muốn của bà B, vết thương nhẹ,
không chạm vào xương sẽ lành hẳn trong vòng hai tuần (theo lời cán bộ thú y),
việc ông A đòi lại tiền đặt cọc và không mua bò sẽ gây khó khăn cho bà B, trong
lúc bà B đang cần bán bò để lấy tiền chữa bệnh cho chồng, chuyện rủi ro xảy ra
hai bên nên cùng nhau sẻ chia, gánh vác.
2. Căn cứ pháp lý
Khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp hợp
đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc
hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao
kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên
nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt
cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác”.
3. Hướng giải quyết
Để bò ở lại nhà bà B, bà B có nghĩa vụ chăm sóc, chữa trị vết thương. Trong hai
tuần nếu bò trở lại bình thường và không ảnh hưởng đến việc đi lại của nó sau
này (phải có sự theo dõi, khách quan của cán bộ thú y) thì ông A đem số tiền
còn lại đến trả đủ cho bà B và dắt bò về. Sau hai tuần bò chưa lành vết thương
thì bà B có nghĩa vụ trả lại tiền đặt cọc cho ông A.
- Vận dụng một số câu ca dao, tục ngữ về tình làng, nghĩa xóm.
Tình huống 43. Đào ao làm nứt móng nền nhà hàng xóm
Ông C đào ao để nuôi cá, trong quá trình đào ao đã gây nứt móng bếp và
có nguy cơ bị đổ sập bếp của bà A ở liền kề. Bà A yêu cầu ông C không được
đào ao nữa, nếu ông C cố tình đào thì bà sẽ cho người sang dạy cho ông một bài
học. Ông C không chấp nhận vì ông cho rằng đất của nhà ông thì ông muốn làm
gì thì làm, miễn là không lấn sang phần đất nhà bà A, còn việc nhà bếp nhà bà bị
nứt móng thì bà A phải tự có biện pháp mà khắc phục.
Nếu được giao hòa giải vụ việc trên, ông/bà sẽ giải quyết trường hợp này
như thế nào?
Gợi ý trả lời:

48
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
Việc đào ao của ông C gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhà bếp của nhà bà A,
có nguy cơ gây thiệt hại về tài sản và tính mạng con người.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 177 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Khi đào giếng, đào ao
hoặc xây dựng công trình dưới mặt đất, chủ sở hữu công trình phải đào, xây
cách mốc giới một khoảng cách do pháp luật về xây dựng quy định....Trường
hợp gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh thì chủ sở
hữu cây cối, công trình phải bồi thường”.
3. Hướng giải quyết
- Giải thích, phân tích cho ông C hiểu việc đào ao của ông C gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến nhà bếp của nhà bà A, có nguy cơ gây thiệt hại về tài
sản và tính mạng con người và vi phạm quy định về pháp luật dân sự nên ông C
phải chấm dứt ngay việc làm của mình.
- Giải thích cho bà A nên dùng lời nói đúng mức đối với ông C, đặt vấn
đề nhẹ nhàng để ông C hiểu được việc đào ao của mình là sai, chứ không nên to
tiếng, nặng lời và đe dọa nhau thêm căng thẳng.

Tình huống 44. Ngăn nguồn nước

Gia đình anh A có một mảnh ruộng đầu nguồn nước, anh A đã đắp bờ dẫn
nguồn nước cho chảy hết vào ruộng nhà mình. Nhà anh B có khu ruộng phía
dưới bị thiếu nước nên khô hạn. Nhiều lần anh B đề nghị anh A không được
ngăn nguồn nước lại, nhưng anh A không đồng ý với lý do nước chảy từ nơi cao
xuống thấp, nhà ai ở gần nguồn nước thì được toàn quyền sử dụng. Sau nhiều
lần đề nghị không được, hai bên thường xảy ra to tiếng cãi vã.
Sự việc được đưa đến tổ hòa giải thôn giải quyết. Nếu được giao hòa giải
vụ việc trên, ông/bà sẽ giải quyết trường hợp này như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
Mâu thuẫn giữa hai nhà do bị chặn nguồn nước.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 253 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:“Người có quyền sử dụng
đất canh tác khi có nhu cầu về tưới nước, tiêu nước, có quyền yêu cầu những
người sử dụng đất xung quanh để cho mình một lối dẫn nước thích hợp, thuận
tiện cho việc tưới, tiêu; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó;
nếu người sử dụng lối dẫn nước gây thiệt hại cho người sử dụng đất xung quanh
thì phải bồi thường”.
3. Hướng giải quyết
- Giải thích cho hai bên hiểu nguồn nước là tài sản chung, tất cả các gia
đình đều có quyền sử dụng.

49

- Vận dụng, dẫn chiếu Điều 253 Bộ luật Dân sự năm 2015 để phân tích
cho hai bên hiểu quyền về tưới nước, tiêu nước trong canh tác. Theo đó anh A
phải để cho anh B một lối dẫn nước thích hợp, thuận tiện cho việc tưới, tiêu.

Tình huống 45. Quản lý di sản thừa kế

Ông bà A có 3 cô con gái, sau khi chết đã để lại di chúc chia đều mảnh đất
ở cho cả 3 cô con gái. Cô con gái thứ hai và cô con út đã thỏa thuận giao phần
đất mà 2 cô được nhận cho người chị cả quản lý để dành vào việc thờ cúng tổ
tiên. Tuy nhiên, thời gian sau cô chị cả có ý định bán toàn bộ mảnh đất của bố
mẹ để lại. Hai người em biết tin không đồng ý và tuyên bố đòi lại đất. Do vậy
mâu thuẫn trong gia đình phát sinh rất căng thẳng. Hai người em đã đến tổ hòa
giải đề nghị giúp đỡ.
Nếu được giao hòa giải vụ việc trên, ông/bà sẽ giải quyết trường hợp này
như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
Mâu thuẫn giữa người chị cả và hai người em về việc quản lý di sản thừa kế.
2. Căn cứ pháp lý
Khoản 1 Điều 617 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ của
người quản lý di sản: “… Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho,
cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được
những người thừa kế đồng ý bằng văn bản; …Giao lại di sản theo yêu cầu của
người thừa kế”.
3. Hướng giải quyết
- Phân tích cho người chị cả hiểu là chị em không nên vì lợi ích vật chất
mà làm ảnh hưởng, rạn nứt tình cảm, quan hệ chị em trong gia đình. Đồng thời
giải thích cho chị hiểu việc chị định bán tất cả thửa đất của bố mẹ đã cho ba chị
em là sai pháp luật.
- Giải thích, thuyết phục người chị cả nên thống nhất với các em trước khi
bán đất của cha mẹ để lại, nếu các em của chị không đồng ý, chị chỉ được bán
phần đất của cha mẹ đã chia cho chị, phần đất còn lại cha mẹ chị đã chia cho hai
người em, chị phải có nghĩa vụ trả lại cho họ.
- Vận dụng một số câu ca dao, tục ngữ về tình cảm gia đình.
Tình huống 46. Mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu

Bà A sống chung với vợ chồng người con trai. Bà A khó tính, khắt khe
với con dâu, ngược lại con dâu bà A cũng nói năng thiếu lễ phép với mẹ chồng.
Hai mẹ con thường lời qua tiếng lại, phát sinh mâu thuẫn gay gắt. Đỉnh điểm bà
A đã đuổi con dâu ra khỏi nhà và bắt con trai bà phải bỏ vợ, nếu không bỏ vợ bà
sẽ từ mặt con trai.
Gợi ý trả lời:

50
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
bà A khó tính hay để ý, khắt khe với con dâu, con dâu bà A nói năng thiếu
lễ phép với mẹ chồng.
2. Căn cứ pháp lý
- Khoản 4 Điều 23 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội”.
- Khoản 2 Điều 70 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Con
có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ
gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình”.
- Điều 103 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:“Các thành
viên gia đình có quyền, nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, tôn trọng nhau”.
- Điều 8 Luật Phòng chống bạo lực gia đình quy định nghiêm cấm các
hành vi bạo lực gia đình trong đó có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia
đình ra khỏi chỗ ở và cưỡng ép ly hôn.
3. Hướng giải quyết
- Giải thích việc bà A đuổi con dâu ra khỏi nhà và bắt con trai bà phải bỏ
vợ là việc làm vi phạm pháp luật và trái với đạo đức xã hội.
- Giải thích, phân tích cho cô con dâu bà A hiểu việc cư xử thiếu lễ phép
với mẹ chồng là sai, là con cô phải có bổn phận yêu quý, kính trọng, hiếu thảo
lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, cha mẹ chồng cũng như
cha mẹ đẻ, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nếu mẹ chồng
có thái độ hoặc lời nói không đúng thì lựa lúc mẹ chồng vui vẻ cô giải thích để
mẹ chồng hiểu và thông cảm.
- Giải thích cho người con trai cần là cầu nối giữa vợ và mẹ; khuyên bảo
vợ cư xử lễ phép với mẹ chồng; động viên mọi người trong gia đình yêu thương
cảm thông chia sẻ và giúp đỡ nhau, bớt đi nỗi vất vả cực nhọc, cùng nhau vun
đắp, xây dựng cuộc sống gia đình.
- Vận dụng một số câu ca dao, tục ngữ tình cảm gia đình.
Tình huống 47. Dọa chết nếu con đăng ký kết hôn
Anh A và chị B sau một thời gian tìm hiểu, hai anh chị đã quyết định xin
phép gia đình hai bên cho họ kết hôn với nhau. Song do trước đây, bà C là mẹ
anh A có mâu thuẫn với mẹ chị B (đã chết) nên bà C cương quyết không cho
anh A cưới chị B. Cho dù bị mẹ ngăn cản nhưng họ vẫn quyết tâm đến với nhau,
hai anh chị đã đến Ủy ban nhân dân xã đề nghị đăng ký kết hôn. Bà C biết
chuyện đã đến Ủy ban nhân dân xã nơi hai anh chị đang đăng ký kết hôn mắng
chửi chị B và dọa sẽ chết nếu anh A cương quyết đăng ký kết hôn với chị B.
Anh A đã phải hoãn ngày đăng ký kết hôn.
Nếu được giao hòa giải vụ việc trên, ông/bà sẽ giải quyết trường hợp này
như thế nào?

51

Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
Bà C là mẹ anh A có mâu thuẫn với mẹ chị B, vì thế bà C cương quyết
không cho anh A cưới chị B.
3. Căn cứ pháp lý
Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Việc kết
hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định…”, khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 quy định:“Cấm hành vi tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối
kết hôn, cản trở kết hôn…”.
3. Hướng giải quyết
- Giải thích cho bà C hiểu anh A và chị B kết hôn là tự nguyện, phù hợp
với quy định của pháp luật. Việc bà C cản trở hôn nhân của anh A và chị B là vi
phạm pháp luật, nếu cứ tiếp tục cản trở hôn nhân của anh A thì bà có thể bị xử
phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bà nên tạo điều kiện để các con có được hạnh phúc, không nên cấm đoán,
cản trở hôn nhân của con chỉ vì mâu thuẫn cá nhân của mình trong quá khứ. Hơn
nữa, mẹ chị B đã chết, không nên cố chấp với người quá cố.
- Giải thích, động viên Anh A: phải bình tĩnh không nên nóng vội, lựa
những thời điểm thích hợp để giải thích, thuyết phục mẹ anh hoặc có thể nhờ họ
hàng, cô bác thuyết phục mẹ giúp mình.
- Giải thích, động viên chị B: không vì sự ngăn cản của bà C mà buồn tủi,
cố gắng động viên anh A thuyết phục bà C để cùng nhau xây dựng hạnh phúc
bằng tình yêu chân chính của mình.

Tình huống 48. Đòi lấy chồng khi chưa đủ tuổi kết hôn
H là con gái ông A và bà B năm nay 17 tuổi, H yêu M 22 tuổi người cùng
thôn, M muốn cưới H, tuy nhiên ông A không nhất trí cho cưới vì M chưa có
công ăn việc làm ổn định, mặt khác H cũng chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định
của pháp luật, nhưng bà B lại ủng hộ cho H và M, vì bà nghĩ con gái cũng đã
bước sang tuổi 18 còn M tuy chưa có công ăn việc làm ổn định nhưng bố mẹ M
lại giàu có. Vì chuyện của con gái mà 2 ông bà thường xuyên cãi nhau, nhiều
khi còn ảnh hưởng đến hàng xóm.
Nếu được giao hòa giải vụ việc trên, ông/bà sẽ giải quyết trường hợp này
như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
Chị H muốn cưới chồng nhưng chưa đủ tuổi kết hôn.
2. Căn cứ pháp lý

52

Điều kiện về độ tuổi kết hôn quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014 là: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”.
- Điều 58 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 07 năm 2020 của
Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp,
hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã, quy định:
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức
lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn.
2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi duy trì
quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
- Điều 183 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào tổ chức việc
lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng
đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.”
3. Hướng giải quyết
- Giải thích, phân tích cho bà B hiểu việc bà ủng hộ cho con gái lấy chồng
khi chưa đủ tuổi kết hôn là tảo hôn là vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia
đình, nếu bà cố tình tổ chức cưới cho con gái thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi tổ chức tảo hôn; anh M cũng có thể bị xử phạt vi phạm hành
chính hoặc phạt tù.
Đồng thời giải thích về những ảnh hưởng đối với sức khỏe, tâm lý, tương
lai của chị H khi lấy chồng sớm, cũng như hệ lụy về mặt xã hội của tảo hôn.
- Giải thích cho ông A cần bình tĩnh phân tích cho bà B hiểu, không nên
nóng nảy cãi nhau với bà B gây mất đoàn kết trong gia đình và ảnh hưởng đến
hàng xóm.
- Giải thích cho chị H và anh M hiểu quy định pháp luật về độ tuổi kết
hôn, những hệ lụy, ảnh hưởng của tảo hôn, chế tài xử phạt của pháp luật nếu vi
phạm.

Tình huống 49. Kết hôn với người có họ hàng

Mồ côi cha từ nhỏ, mẹ đi lấy chồng, từ bé anh C đã phải sống với gia đình
người dì ruột. Những ngày tháng sống trong gia đình dì đã khiến C có tình cảm
gắn bó đặc biệt với chị H là con gái của dì. Sau đó người dì quyết định tác hợp
cho 2 người thành vợ chồng, khi biết chuyện mẹ của C không đồng ý vì 2 đứa có
họ hàng lấy nhau là không được. Vì chuyện này mà mẹ của C và dì liên tục xảy
ra mâu thuẫn, thậm chí hai người còn từ mặt nhau.
Nếu được giao hòa giải vụ việc trên, ông/bà sẽ giải quyết trường hợp này
như thế nào?
Gợi ý trả lời:

53
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
Do không đồng ý cho con trai lấy con gái của em gái ruột mà mẹ của C và
dì ruột.
2. Căn cứ pháp lý
Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cấm: “Kết
hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực
hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời”.
- Khoản 2 Điều 59 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 07 năm
2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ
tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã, quy định: “Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
20.000.000 đồng đối với hành vi: Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa
những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong
phạm vi ba đời”.
3. Hướng giải quyết
- Phân tích cho anh C, chị H và dì của C hiểu việc hôn nhân giữa anh C và
chị H là hôn nhân cận huyết thống, bị pháp luật cấm vì 02 người có họ trong
phạm vi ba đời. Đồng thời, giải thích về những ảnh hưởng và hậu quả của việc
kết hôn cận huyết thống như: làm suy giảm sức khỏe, con cái sinh ra dễ có dị
tật/bệnh di truyền; kém phát triển chiều cao/cân nặng; kém phát triển trí tuệ; lâu
dài, ảnh hưởng đến chiều cao/cân nặng cũng như ảnh hưởng đến đạo đức/văn
hóa dân tộc ...
- Phân tích động viên mẹ của C cần bình tĩnh không nên nóng nảy từ từ
giải thích với em gái, giảng giải cho cháu gái và con trai hiểu được việc nếu lấy
nhau là vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến đạo đức, văn hóa dân tộc, ảnh hưởng
đến thể chất và lẫn trí tuệ của con cái ...

Tình huống 50. Con anh con em

Ông, bà AB sinh sống tại một bản vùng sâu, vùng xa của huyện Sốp Cộp
tỉnh Sơn La. Sau khi kết hôn, ông bà sinh lần lượt được 8 người con. Do điều
kiện kinh tế khó khăn, lại đông con và thường xuyên đau ốm nên ông, bà AB đã
quyết định cho con gái út tên TH đi làm con nuôi của một gia đình thân quen
nhưng hiếm muộn ở ngoài Thành phố Sơn La. Sau này bố mẹ nuôi của TH
chuyển công tác và về sinh sống tại tỉnh Hưng Yên.
Năm 2019, con gái của chị TH là cháu Q đỗ Đại học Ngoại Thương và lên
thuê trọ học ở Hà Nội. Tại nơi ở trọ, cháu Q có quen và yêu cháu PH đang theo
học Nghề sửa chữa ô tô cùng ở cùng dãy trọ. Qua một thời gian tìm hiểu, cả hai
xác định chuyện tình cảm là nghiêm túc và tháng 12 năm 2020, Q dẫn PH về
thăm gia đình tại Hưng Yên. Khi gia đình nhà Q nói chuyện, thăm hỏi, ông bà
của Q mới biết cháu PH là con anh trai của chị TH (mẹ của cháu Q). Hai gia
đình đã cấm cản và yêu cầu cả hai chấm dứt quan hệ, mâu thuẫn ngày càng căng
thẳng khi cả hai vẫn kiên quyết đòi kết hôn.
Nếu được giao hòa giải vụ việc trên, ông/bà sẽ giải quyết trường hợp này
như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn
Mâu thuẫn giữa gia đình với quyết định kết hôn của Q và PH do 2 cháu Q
và Ph có mối quan hệ huyết thống giữa.
2. Căn cứ pháp lý
- Căn cứ Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
+ Tại Khoản 17, Điều 3 quy định:
“17. Những người cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ
huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau.”
+ Tại Khoản 18, Điều 3 quy định:
“18. Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một
gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha
khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con
cô, con cậu, con dì là đời thứ ba.”
+ Tại điểm d, Khoản 2, Điều 5 về cấm các hành vi:
“d. Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng
máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi
với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con
dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của
chồng.”
- Căn cứ điểm a, Khoản 2, Điều 59 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày
15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự;
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định:
“2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong
các hành vi sau:
a) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng
máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;”
3. Hướng giải quyết
Hòa giải viên cần tiến hành phân tích để cháu Q và PH hiểu được việc
làm của mình là vi phạm pháp luật. Theo quy định của pháp luật nêu trên, thì Q
và PH là người có họ trong phạm vi 03 đời, là anh em con cô và con bác; thuộc
trường hợp cấm kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
và bị xử phạt vi phạm hành chính với số tiền là từ 10-20 triệu đồng.
Phân tích để các cháu hiểu rằng, tình cảm anh em là mối quan hệ thiêng
liêng, cần được tôn trọng./.

 

 

 

Tin tức








Đăng nhập
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN PHÙ YÊN

Cơ quan chủ quản: UBND huyện Phù Yên - Giấy phép xuất bản số:      /GP-TTĐT
Địa chỉ: Tiểu khu 4 - Thị trấn Phù Yên - Huyện Phù Yên - Tỉnh Sơn La
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Ông Phan Quý Dương - Phó Chủ tịch UBND huyện
Điện thoại: 02123.863.322 |  Mail: bbt.phuyen@sonla.gov.vn
Ghi rõ nguồn "https://phuyen.sonla.gov.vn" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này

 Chung nhan Tin Nhiem Mang